Xuất xứ:
Tương Như nghèo khổ khảy bài Phượng cầu hoàng mà lấy được lòng Trác Văn Quân phú quý và cưới nàng về làm vợ, cuộc sống nghèo khổ qua ngày. Sau đó Hán Vũ Đế lên ngôi, Tương Như được làm Tư Mã. Thời gian Tương Như lên Trường An làm quan chừng đã 5, 6 năm, Trác Văn Quân nhiều lần gửi thư nhưng không được hồi đáp. Tư Mã Tương Như từ ngày phú quý quên tình vợ quê, muốn cưới người con gái ở Mậu Lăng làm thiếp. Tương Như bèn gửi cho Văn quân lá thư chỉ ghi một dãy số: "一、二、三、四、五、六、七、八、九、十、百、千、萬". (một, hai, ba, bốn,năm, sáu, bảy, tám, chin, mười, tram, ngàn, vạn). Trong dãy số đếm này thiếu chứ 億 (ức – trăm ngàn), chữ này còn có nghĩa là nhớ. Ý của Tư mã như thế đã rõ, ông không muốn nhớ đến tình nghĩa vợ chồng nữa. Văn Quân hiểu được ý đó nên làm bài Bạch Đầu Ngâm gửi cho Tư Mã và kèm thêm phong thư Quyết Biệt. Điều đáng nói là bài thơ của Văn Quân có thêm chữ ức (億), tức là vẫn nhớ đến tình nghĩa vợ chồng xưa. Tương Như đọc xong cảm được tình nghĩa ấy nên mới thôi cưới thiếp, sau đó rước Văn Quân lên Trường An.
Bài thơ:
白頭吟
*數字詩* - 卓文君 –
皚如山上雪,皎若雲間月。聞君有兩意,故來相決絕。
今日鬥酒會,明旦溝水頭。躞蹀禦溝上,溝水東西流。
淒淒復淒淒,嫁娶不須啼。願得一心人,白頭不相離。
竹竿何嫋嫋,魚尾何簁簁。男兒重意氣,何用錢刀為。
Bài ngâm Bạc Đầu
(thơ chữ số)
Trắng tợ tuyết trên non
Sáng như trăng giữa trời
Nghe anh lòng đôi nẻo
Nên quyết dứt nghĩa thôi.
Hôm nay rượu sum vầy
Mai tiễn nhau cuối hào
Lững thững theo con nước
Nước xuôi dòng cuốn trôi.
Đau thương vẫn đau thương
Khóc than để làm gì!
Ước mong người một lòng
Bạc đầu không chia ly!
Cần câu khẽ động đậy
Cá vẫy đuôi phành phạch.
Nam nhi trọng tình nghĩa
Sao bạc tiền đổi thay.
(Thiên Trác dịch.)
Quyết Biệt Thư
一別之後,兩地相思,說的是三四月,卻誰知是五六年。七弦琴無心彈,八行書無可傳,九連環從中折斷。十里長亭望眼欲穿。百般怨,千般念,萬般無奈把郎怨。萬語千言道不盡,百無聊賴十憑欄。重九登高看孤雁,八月中秋月圓人不圓。七月半燒香秉燭問蒼天,六月伏天人人搖扇我心寒,五月榴花如火偏遇陣陣冷雨澆花端,四月枇杷黃,我欲對鏡心意亂,三月桃花隨流水,二月風箏線兒斷。噫!(億)郎呀郎,巴不得下一世你為女來我為男。
Dịch:
Một lần chia biệt
Hai nẻo tương tư
Nói rằng ba, bốn tháng
Ai ngờ năm, sáu năm
Đàn bảy dây không muốn gảy
Tám lối viết không còn hồn
Bài ca chín khúc đứt đoạn
Đình mười dặm ngóng trông mỏi mòn
Trăm nỗi ai oán
Ngàn nỗi nhớ mong
Vạn niềm trách chàng chẳng đừng.
Vạn tiếng ngàn lời nói chẳng hết
Trăm điều buồn bã, mười phần chán ngán
Ngày chín tháng chín lên cao trông nhạn
Trung thu tháng tám trăng tròn mà người chẳng tròn
Tháng bảy ngày rằm, đốt hương thắp đèn khấn nguyện trời xanh
Ngày nóng tháng sáu mọi người phe phẩy quạt mà lòng thiếp lạnh giá
Tháng năm lửa lựu lập lòe bỗng gặp mưa trận xối nát tan
Tháng tư tỳ bà chín vàng, thiếp vừa muốn soi gương lòng rối bời bời
Hoa đào tháng ba mặc cho nước cuốn
Tháng hai thả diều đứt dây
Ôi! (Ức = nhớ) chàng hỡi chàng!
Chỉ mong kiếp sau chàng là gái thiếp làm nam nhi.
(Thiên Trác dịch).
Chú Thích:
1. 皚如山上雪,皎若雲間月: Ngai như sơn thượng tuyết, hiệu nhược vân gian nguyệt: nói về bản thân trong trắng và cao đẹp của người phụ nữ, tức chỉ cho bản thân Văn quân.
2. 鬥酒會: Đấu tửu hội: Đấu là vật dụng đựng rượu, câu này tả cảnh tiệc rượu đêm trước ngày chia tay tiễn chồng lên kinh. Để rồi sáng ra, tạm biệt nhau nơi cuối con hào nước.
3. 躞蹀: Tiệp điệp: dáng vẻ lững thững bồi hồi.
4. 東西流: Đông tây lưu: đông tây là dùng theo lối thiên nghĩa, tức chỉ hướng đông, chảy ra đông. Trách Tương Như sao để tình nghĩa vợ chồng theo dòng nước chảy ra biển đông, một đi không còn trở lại!
5. 一心人: Nhất tâm nhân: Người không có hai lòng. Người con gái lấy chồng chỉ mong được người một lòng yêu mến, không thay lòng đổi dạ.
6. 竹竿: Trúc can: cần câu. Dân gian Trung quốc thường mượn chuyện câu cá để nói lên chuyện tình cờ nam nữ gặp nhau.
7. 嫋嫋: Niễu niễu: động thái cần câu, chỉ sự lay động.
8. 簁簁: Si si: Dáng cá quẫy đuôi.
9. 意氣: Ý khí: tình nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét