Đức
Phật nhấn mạnh rằng, để nhận ra tính linh thánh của chúng ta - tức Phật tánh
hay giác tánh - chúng ta phải tìm từ bên trong, không phải từ bên ngoài.
Có
nhiều truyền thống và bộ phái trong Phật giáo, cũng giống như có nhiều giáo
phái ở trong các tôn giáo khác. Những truyền thống Phật giáo khác nhau có những
lễ nghi, pháp tu khác nhau nhưng chúng đều có chung một giáo lý căn bản của đức
Phật, giáo lý ấy được tóm tắt ở trong Tứ Đế và Bát Chánh Đạo. Ở đây chúng ta
không thảo luận về nội dung giáo lý ấy mà chỉ bàn đến vai trò của cầu nguyện
trong Phật giáo.
Trong
khi bàn đến nội dung đó, chúng tôi muốn chia sẻ một số trích dẫn từ những truyền
thống Phật giáo và những đạo sư khác nhau, tiếp đó sẽ trình bày một số những nhận
định của bản thân. Nên nhớ trong Phật giáo, từ “thiền” được dùng thường xuyên
hơn từ “(cầu) nguyện”, nhưng cả hai từ đều được dùng để chỉ một phương pháp tu
tập bản thân, mặc dù có những sự khác biệt trong mục đích và cấu trúc. Điều này
sẽ được giải thích ở đoạn sau.
Trước
hết chúng ta hãy trích lời của nhà sư Tây Tạng Yongey Mingyur Rinpoche từ cuốn
sách The Joy of Living (Niềm Vui Sống) của ông.
“Không
cần biết bạn thiền bao lâu, hay bạn đang sử dụng phương pháp nào, mọi pháp thiền
Phật giáo sau rốt sẽ phát khởi tâm từ bi, dù bạn có nhận thức được nó hay
không. Bất kỳ lúc nào nhìn vào tâm mình, bạn phải nhận thấy được sự giống nhau
giữa bạn với những người xung quanh. Khi biết rằng bạn muốn được hạnh phúc, bạn
không thể không nhìn nhận ước muốn tương tự nơi những người khác; và khi thấy
rõ nỗi lo sợ, giận dữ hay ghen ghét nơi bạn, bạn không thể không thấy rằng mọi
người xung quanh cũng có cảm giác lo sợ, giận dữ hay ghen ghét tương tự. Khi bạn
quán chiếu tâm mình, tất cả những sai biệt ảo tưởng giữa bản thân bạn với những
người khác sẽ tự động tan biến; và khi ấy lời nguyện cầu kinh điển về Tứ vô lượng
tâm trở nên tự nhiên và miên mật như nhịp đập của con tim:
Nguyện
cầu hết thảy chúng sinh được hạnh phúc và đầy đủ nhân duyên của hạnh phúc. (Từ)
Nguyện
cầu hết thảy chúng sinh thoát khỏi khổ não và những nguyên nhân đưa đến khổ
não. (Bi)
Nguyện
cầu hết thảy chúng sinh luôn sống trong yên vui không có khổ đau. (Hỷ)
Nguyện
cầu hết thảy chúng sinh xa lìa tất cả chấp trước, oán ghét, an trú trong tịch tịnh.
(Xả)”
Tiếp
theo là trích dẫn từ cuốn Prayer in Buddhism (Cầu nguyện trong Phật giáo) của
G.R. Lewis, một người theo Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản.
“Sự
cầu nguyện trong Phật giáo là một phương pháp để thức tỉnh những năng lực bi,
trí, dũng vốn tiềm ẩn trong chúng ta hơn là thỉnh cầu những năng lực bên ngoài
nhờ vào sự kính sợ, sùng tín và lợi lộc thế gian hay thần thánh nào. Cầu nguyện
của Phật giáo là một hình thức thiền, đó là một phương pháp tu chỉnh nội tâm. Cầu
nguyện Phật giáo thay thế cái tiêu cực bởi cái đức hạnh, và hướng chúng ta đến
những cái tốt đẹp của đời sống.”
Lewis
đưa ra ví dụ Lời Cầu Nguyện Từ Bi (The Prayer of Metta-karuna) sau đây được lấy
từ ngài Tịch Thiên, một đại đạo sư Phật giáo Ấn độ thế kỷ thứ VIII:
Đấng
Chân như của Thọ mạng và Quang minh
Xin
dâng trọn niềm tin nơi Đại bi của Ngài
Mong
ngài trừ bỏ sự ngu muội nơi thân con
Biến
con thành suối nguồn yêu thương.
Con
nguyện làm lương dược cho những ai đang bệnh ốm
Chăm
sóc họ cho đến khi những đau đớn được chữa lành
Con
nguyện làm thực phẩm trong mùa đói khát
Bảo
hộ cho những người nghèo khổ đơn côi
Con
nguyện làm đèn sáng cho người trong đêm tối
Nguyện
làm nhà cho mọi người nghỉ ngơi
Và dẫn
đường cho kẻ tìm lối qua bờ bên ấy
Con
nguyện cho mọi người được yên vui
Và
không ai còn khổ đau bởi vì con
Mặc
cho họ có ghét bỏ hay thương yêu
Có
đánh đập hay trách móc con nhiều
Nguyện
tất cả đều thấy được niềm tin rất chân thành.”
Có sự
sóng đôi giữa lời nguyện Phật giáo này với lời nguyện của Thánh Francis. Sự
khác biệt đáng chú ý đó là lời nguyện của Thánh Francis được hướng ra bên ngoài
đến “Đức chúa trời” trong khi lời nguyện của Phật giáo được hướng vào bên trong
đến “Đấng/Cái Chân như của thọ mạng và ánh sáng”.
Sự
khác biệt này phản ánh điểm nhấn mạnh của đức Phật trên sự vô ngã, bản chất hỗ
tương của mọi thực thể, bao gồm ảo giác về một cái ngã độc lập, tự chủ, quyền
năng mà nó tách biệt với những kẻ khác và phần còn lại của hiện hữu. Đức Phật nội
tại hóa hơn là ngoại hóa căn nguyên của mọi hiện hữu, dù cái đó được gọi là gì,
là Thượng Đế, Yahweh, Allah, Ý Thức Vũ Trụ, Không Tính, Nhất Thể ... hay nói một
cách đơn giản là Sự Huyền Bí Không Thể Trắc Lượng.
Sự
trích dẫn tiếp theo đây từ ngài Dalai Lama: “Hầu hết các lời cầu nguyện chúng
ta tụng đọc đều chứa đựng ý nghĩa cần được phản chiếu .... Có một loại tán tụng
mà nó được thực hiện để khấn nguyện lòng từ bi của đức Phật, nhưng sự khác nhau
giữa sự khấn nguyện ấy với cầu nguyện một vị chúa trời được xác định bởi động lực
và sự nhận thức những gì người ta đang làm. Bất kỳ khi nào một Phật tử đại thừa
lễ bái hay cầu nguyện đức Phật hoặc Bồ-tát, thì đó là lúc vị ấy cầu xin sự hộ
trì từ những đức tính thánh thiện nội tại của họ để đạt được giác ngộ ngõ hầu
đem đến lợi ích cho hết thảy sinh linh.”
Và
đây là một đoạn trích từ Daisaku Ikeda, chủ tịch Quốc Tế Sáng Giá Học Hội (Soka
Gakkai International - SGI) và là người đứng đầu truyền thống Phật Giáo Nhật
Liên Tông, một truyền thống thực hành tụng đọc như một hình thức chính của thiền
thay vì tịnh tọa:
“Những
lời kinh nguyện là một thực thể cụ thể trong cuộc sống của chúng ta. Cầu nguyện
là đối thoại, là trao đổi với vũ trụ. Khi chúng ta cầu nguyện là khi chúng ta
ôm lấy vũ trụ bằng đời sống và quyết tâm của chúng ta. Cầu nguyện là một cuộc
tranh đấu để trải rộng cuộc đời của chúng ta.
Cầu
nguyện không thuộc lãnh địa của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ
đó. Cầu nguyện là một hành vi trong đó chúng ta biểu lộ những ước muốn khẩn thiết
và mãnh liệt tự trong sâu thẳm của chúng ta và mong ước chúng được thành tựu.”
“Niềm
tin của chúng ta được phản ánh trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, trong môi
trường thực tế. Những lời cầu nguyện của chúng ta không thể được đáp lại nếu
chúng ta không nỗ lực thích đáng với hoàn cảnh.”
Ngoài
ra tôi cũng muốn lấy thêm một trích dẫn từ Deborah Guthrie, một hành giả sở tại
của truyền thống này. Bà ấy nói, “cầu nguyện trong Phật giáo Nhật Liên Tông là
sự thực hành tụng đọc. Những lời kinh cầu có thể là những lời thỉnh cầu một thứ
gì đó cụ thể, chẳng hạn đó là sự bảo hộ tài chính; hoặc trừu tượng, như hạnh
phúc; thế nhưng sự cầu nguyện được xem như một sự chú tâm hay kiên quyết hơn là
một sự cầu xin. Những lời cầu nguyện được tụng lên với sự hiểu biết rằng những phước
lợi đó sẽ giúp họ tiến bước trên con đường hướng đến sự giác ngộ, để họ có khả
năng giúp đỡ những kẻ khác cùng tiến bước trên con đường đạo. Những lợi ích
tinh thần được xem là cái quan trọng nhất trong quá trình này, chứ không phải
những lợi ích vật chất, chẳng hạn đó là sự tăng thêm an lạc, từ bi và trí tuệ.”
Trích
dẫn tiếp theo đây từ truyền thống Phật giáo Lamrim của Tây Tạng: “đức Phật dạy
rằng vạn pháp tùy tâm, vì thế, nếu chúng ta muốn xây dựng một thế giới yên
bình, trước hết chúng ta phải thiết lập sự yên bình từ trong tâm của chúng ta.”
Tôi
trích dẫn lời này bởi vì nó thực sự thích hợp với thời đại hôm nay, một thời đại
đang đối diện với những nguy cơ tận diệt do chiến tranh nguyên tử hoặc sự ấm
lên của địa cầu. Chúng ta phải có được an lạc nội tại trước khi có được an lạc
từ bên ngoài.
Và
đây là một đoạn trích từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong cuốn “Bụt Ngàn Đời,
Chúa Ngàn Đời”, trong phần ông gọi là “Lời nguyện cầu cụ thể”:
“Sơ
tâm, từ bi tâm, bồ đề tâm là những yếu tố tối cần thiết đối với vị hành giả Phật
giáo. Người Phật tử luôn luôn tuân thủ (ít nhất) năm học giới (không giết hại,
không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, và không dùng chất gây say độc hại).
Những học giới này thể hiện sự hiểu biết và tình yêu thương của vị hành giả.
Chúng không phải là những luật tắc bị ép buộc từ bên ngoài mà là sự thực tập cụ
thể chánh niệm và thiền định. Sự nguyện cầu của con tim không thể có đối với những
ai không thọ trì giới cấm. Chẳng hạn, nếu bạn không giữ giới “không giết hại”,
làm sao có thể “bạn sẽ yêu thương thượng đế của bạn”?
Chúng
ta hãy cùng đọc một bài thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh mà nó có thể được xem
như một sự thực tập thiền định hay nguyện cầu và phản ánh thơ mộng sự hòa hợp của
vạn pháp đang hiện hữu. Thiền sư viết bài thơ này năm 1976 khi ông hay tin một
cô gái 12 tuổi, một trong số rất nhiều thuyền nhân vượt biên, đã trầm mình vào
lòng đại dương sau khi bị một tên cướp biển hãm hiếp. Sau mấy tiếng đồng hồ thiền
quán, ông nhận thấy “tôi không thể hùa theo mọi người để kết án tên cướp. Tôi
nhận thấy rằng nếu tôi phải sinh ra trong ngôi làng của hắn và lớn lên trong
hoàn cảnh tương tự, tôi có thể trở thành như chính hắn”. Bài thơ đã tuôn chảy
theo niềm đau khổ ấy:
Hãy
Gọi Đúng Tên Tôi
đừng
bảo ngày mai tôi sẽ ra đi
bởi
vì chính hôm nay tôi vẫn còn đang tới
hãy
ngắm tôi thoát hình trong từng phút từng giây
làm
đọt lá trên cành xuân
làm
con chim non cánh mềm
chiêm
chiếp vui mừng trong tổ mới
làm
con sâu xanh trên cuống hoa hồng
làm
gân viên ngọc trắng tượng hình trong lòng đá
tôi
còn tới để khóc để cười
để ước
mong để lo sợ
sự
xuất nhập của tôi là hơi thở
nhịp
sinh diệt của tôi cũng là tiếng đập một lần
của
hàng triệu trái tim
tôi
là con phù du thoát hình trên mặt nước
và
là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du
tôi
là con ếch bơi trong hồ thu
và
cũng là con rắn nước trườn đi
tìm
cách nuôi thân bằng thân ếch nhái
tôi
là em bé nghèo Uganda, bao nhiêu xương sườn đều lộ ra,
hai
bàn chân bằng hai ống sậy
tôi
cũng là người chế tạo bom đạn
để
cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi
tôi
là em bé mười hai, bị làm nhục nhảy xuống biển sâu
tôi
cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim chưa biết nhìn biết cảm
tôi
là người đảng viên cao cấp cầm quyền sinh sát trong tay
và
cũng là kẻ bị coi là có nợ máu nhân dân
đang
chết dần mòn trong trại tập trung cải tạo
nỗi
vui của tôi thanh thoát như trời Xuân, ấm áp cỏ hoa muôn lối
niềm
đau của tôi đọng thành nước mắt, ngập về bốn đại dương sâu
hãy
nhớ gọi đúng tên tôi
cho
tôi được nghe một lần tất cả những tiếng tôi khóc tôi cười
cho
tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một
hãy
nhớ gọi đúng tên tôi
cho
tôi giật mình tỉnh thức
và để
cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ
cánh
cửa xót thương.
Đây
là một bài thơ hay và cũng là một bài tập thiền quán phản ánh tính đồng nhất và
lòng từ bi. Giờ đây tôi muốn có một vài sự quán sát của bản thân. Từ trước đến
giờ tôi đã nói về những lời cầu nguyện và thiền mà chúng nhấn mạnh việc sử dụng
quá trình suy tư và nhận thức của chúng ta để phát triển trí tuệ và từ bi. Thực
tế, phương pháp thiền hay cầu nguyện mà đức Phật thường đề cập đến và kỹ thuật
mà chính ngài đã sử dụng để được giác ngộ là phương pháp thiền tọa để giảm thiểu
và vượt qua quá trình nhận thức và tư duy.
Thực
hành phương pháp này, hành giả phải ngồi yên tĩnh, chú tâm vào hơi thở hoặc một
lời nói được lặp đi lặp lại, hoặc chú tâm vào một âm thanh hay hình ảnh tưởng
tượng. Và cứ như thế kéo tâm trở lại trên hơi thở hay đối tượng đã được chọn mỗi
khi bị xao lãng do những âm thanh, sự xúc chạm, hay những ý tưởng, cảm giác và
hình ảnh khởi lên một cách tự nhiên trong thức.
Thông
qua việc thực tập thường xuyên phương pháp chú tâm vào hơi thở và điều tâm để
trừ bỏ những tư tưởng và cảm giác không như ý, hành giả dần dần tu bồi trí tuệ
và từ bi của mình. Nó dẫn đến một sự tỉnh giác và từ bỏ những tư tưởng phân biệt,
trù tính để rồi hành giả chiêm nghiệm được sự an lạc, vắng lặng và bình yên –
những phẩm chất vốn tiềm tại trong tâm và vượt lên trên sự thấy biết.
Tôi
nhớ một câu chuyện về mẹ Teresa, một phóng viên hỏi rằng bà đã nói gì khi cầu
nguyện chúa. Bà trả lời: “tôi chẳng nó gì cả, chỉ lắng nghe thôi.” Và tiếp đó
khi vị phóng viên hỏi, “vậy chúa nói với mẹ điều gì khi mẹ cầu nguyện”, bà trả
lời, “chúa không nói gì cả, ngài cũng chỉ lắng nghe thôi.”
Thể
nghiệm sự tĩnh lặng và vượt lên trên những suy tư, dù được hoàn thiện bằng cách
nào đi nữa, có lẽ là mục đích chung cao nhất và là mẫu số chung cho tất cả sự cầu
nguyện, hành thiền, và trầm tư trong tất cả các tôn giáo. Và tọa thiền là một
phương pháp kỳ diệu ngày này đã được xác nhận bởi nghiên sự cứu khoa học thuộc
các ngành tâm sinh lý và thần kinh học trong nửa thế kỷ qua. Nó tạo điều kiện
cho sự trưởng thành tâm lý và tâm linh, sự đổi thay và chuyển hóa nội tâm, và
sau cùng là thể nghiệm cái mà Thiên Chúa gọi là “hợp nhất với Chúa”, Phật giáo
gọi là giác ngộ, và cái mà tôi diễn tả như là kinh nghiệm siêu việt về “cái nhất
không đối đãi” hoặc “sự tỉnh giác trống không”.
Bên
cạnh đó, có nhiều phương pháp thiền và cầu nguyện Phật giáo sử dụng quá trình
nhận thức để tạo điều kiện cho sự phát triển tâm linh. Chúng bao gồm các thiền
tu tập bốn phẩm tính thiêng liêng đã nói ở trước: từ, bi, hỷ và xả. Loại thiền
này chú trọng sự lặp đi lặp lại những câu như: “mong cho tôi được khỏe mạnh,
mong cho tôi được an lành, mong cho tôi được an lạc, và mong cho tôi được yên tịnh”.
Những câu đó trước hết được hướng đến bản thân, sau đó được hướng đến người
thân, rồi những người xa lạ, kẻ thù, và tất cả chúng sinh.
Mặc
dù các phương pháp thiền như thế có vẻ giống như những lời kinh cầu nguyện ở
trong Thiên Chúa Giáo, thế nhưng chúng khác biệt nhau ở chỗ mục đích của chúng
là để phát triển bản thân nội tại và nhận ra những phẩm tính từ, bi, hỷ, xả vốn
có ở nơi những người khác; đồng thời tu tập những phẩm đức này để vượt qua cái ảo
giác cách biệt giữa bản thân với những người khác và để thể nghiệm thật tính
tương quan giữa mọi chúng sinh và các pháp, giữa các hiện tượng thuộc tâm và sắc.
Những
lời ca tụng tán dương cũng có ở trong Phật Giáo, tuy nhiên chúng chỉ là thể hiện
sự nhận thức mối dung thông tương nhiếp của các pháp cũng như sự cảm nghiệm sâu
xa về lòng tri ân. Trong Thiên Chúa Giáo, kinh nghiệm đó thường được cho là
lòng tri ân đối với Chúa, trong khi đối với người Phật tử, đó đơn giản chỉ là một
kinh nghiệm tri ân không có chủ thể bản ngã. Khi người Phật tử thể hiện lòng
tri ân, họ chỉ thể hiện lòng biết ơn cuộc sống và những điều huyền bí của cuộc
sống như nó biểu lộ nơi chính bản thân họ hơn là cảm ơn đối với những cá thể
ngoại tại.
Có
thể, lời Nguyện Thực Hành Bồ Tát Đạo mô tả đúng nhất sự định hướng mục đích cho
những phương pháp thiền, tụng niệm, cầu nguyện và những pháp tu tâm khác trong
Phật giáo, kể cả việc những Phật tử nỗ lực như thế nào cho cuộc sống thường nhật.
Bồ Tát Nguyện là một lời nguyện thương yêu hết thảy chúng sinh, nó được phản
ánh ở trong bài kệ sau:
Nguyện
tôi được giác ngộ
Vì lợi
ích chúng sinh
Nguyện
hết thảy mọi loài
Được
hoàn thành chánh giác
Công
đức này có được
Hồi
hướng khắp mọi loài
Được
thoát khổ lìa mê
Cùng
nhau sống an lạc.
Thanh
Hòa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét