Thứ Hai, tháng 11 20, 2006
Thiền làm lắng tâm, giúp cơ thể khỏe mạnh
Chủ Nhật, tháng 11 19, 2006
BÁNH XE LUÂN HỒI
Thứ Ba, tháng 9 05, 2006
Nó vốn như vậy
Chủ Nhật, tháng 8 27, 2006
Dược Sư Như Lai
Thanh Hòa dịch
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
Thông thường, “chúng sinh” là chỉ cho bất cứ sinh thể nào cảm nhận được cảm giác (có cảm thọ) – dễ chịu, khó chịu và trung tính. Như thế, chúng ta là những chúng sinh, và các loài sinh vật khác cũng là những chúng sinh; nhưng nhà cửa và cây cỏ thì không phải là chúng sinh bởi vì chúng không có cảm giác. Có hai loại chúng sinh: hàm thức và giác ngộ. Một chúng sinh hàm thức, hay là một sinh thể đang sống, là chúng sinh mà tâm của nó đang bị bóng tối vô minh bao phủ. Một chúng sinh giác ngộ là một chúng sinh đã hoàn toàn thoát khỏi bóng tối của vô minh.
Thứ Tư, tháng 8 23, 2006
Tìm Hiểu Về Sám Hối
1. Giới thiệu
Kinh Đại Bát-niết-bàn có nói: “thế gian có hai hạng người dũng mãnh, thứ nhất là người không làm ác, thứ hai là người đã làm ác mà biết hối lỗi”. Sống trên cuộc đời này mấy ai không phạm phải điều sai quấy, điều quan trọng là phải nhận thức và sửa đổi những lỗi lầm mình đã phạm, có như thế thì cuộc sống mới càng ngày càng tốt đẹp hơn. Đối với người xuất gia, muốn thực hiện con đường giải thoát thì phải hộ trì Thánh giới đã thọ không để cho bị hủy phạm, nếu Thánh giới bị hủy phạm khiến cho giới thể bị ô nhiễm thì cần phải làm cho thanh tịnh trở lại. Lại nữa, các hành vi thiện ác của chúng ta vốn không mất đi mà nó chỉ chuyển sang một dạng tồn tại khác dưới hình thức những năng lực tiềm tàng gọi là nghiệp. Nghiệp ấy đức Phật dạy: “Một khi nghiệp đã được tạo thì trăm ngàn kiếp không mất đi, chỉ chờ điều kiện thuận tiện là phát hiện thành quả”. Vì nghiệp là năng lực dẫn sanh quả báo, cho nên người học Phật cần phải biết cải thiện nghiệp của mình. Xuất phát từ hai lý do hộ trì Thánh giới và tiêu trừ nghiệp này mà đức Phật thiết lập phương pháp sám hối.
Thứ Hai, tháng 7 24, 2006
Phật giáo: Hữu thần - Vô thần
Thứ Bảy, tháng 6 24, 2006
Giải mã Da Vinci cho Phật Giáo
Thanh Hòa
Sự Vận Động Của Bánh Xe Sinh Hóa
Thứ Sáu, tháng 6 23, 2006
Tiếp Nhận Giáo Lý Nghiệp Như Thế Nào?
Vừa lọt lòng, đứa con đã nghe bằng trạng thái vô thức câu nói cửa miệng của người mẹ “Lạy Trời lạy Phật cho con tôi siêng ăn siêng chơi”. Lớn lên thì cầu trời cầu Phật cho duyên may duyên tốt: “Tóc ngôi dài, tóc mai cụt; Cầu trời khấn Bụt cho tóc mai dài; Bao giờ tóc chấm ngang vai; Thì ta kết nghãi làm hai vợ chồng”. Nghĩ đến mẹ cha thì cầu “Chí tâm niệm Phật đêm ngày, cầu cho cha mẹ sống tày non cao” hay “Dốc lòng niệm Phật không lơi, cầu cho cha mẹ thác thời siêu sinh”. Nói chung, trong tư duy của giới bình dân, hình ảnh chùa, Phật trở nên quá quen thuộc, nó đã thấm sâu vào dòng máu của mọi người từ nhiều đời nhiều kiếp mà như Vũ Hoàng Chương đã từng nói “Trang sử Phật cũng là trang sử Việt”[1]. Trong đó, về mặt đạo lý, phải nói rằng tư tưởng “nghiệp báo luân hồi” là cái đã có ảnh hưởng sâu đậm nhất. Tuy nhiên, quan niệm nghiệp báo trong dân gian không hoàn toàn giống như giáo lý nghiệp mà đức Phật dạy. Điều đó là một hiện tượng tất nhiên trong quá trình lưu truyền và dung hợp của mọi hình thái tư tưởng khi đi vào quần chúng.
Thứ Ba, tháng 6 06, 2006
Sự đa dạng của Nghiệp_Phân biệt Nghiệp
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý. Thế nhưng, vào thời kỳ Phật giáo Bộ phái, các bộ luận nối tiếp nhau ra đời; các luận chủ đi sâu vào phân tích nghĩa lý đã được nói vắn tắt trong các kinh làm cho giáo lý được triển khai ra nhiều phương diện; các khái niệm cũng theo đó mà trở nên phức tạp từ tên gọi cho đến phạm vi ý nghĩa. Để giúp người học Phật hiểu cặn kẽ tính chất, ý nghĩa của nghiệp, các bộ luận như Câu-xá, Tì-bà-sa… đã phân tích khái niệm nghiệp dưới nhiều góc độ, tạo nên sự đa dạng trong cách phân loại. Dưới đây là các loại nghiệp đã được tìm thấy trong tam tạng giáo điển, và sự phân loại này chủ yếu dựa trên luận Câu-xá.
Thứ Bảy, tháng 6 03, 2006
Cái nhìn sơ khởi về NGHIỆP
Thứ Năm, tháng 6 01, 2006
Gã cùng tử trở về
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày một thêm xa chốn quê nhà.
Cuộc sống là hành trình ra đi mà ít khi nhớ quay trở lại, có nhớ chăng thì đêm tối đã tràn đầy mà đường về hãy còn tít mù khơi. Cảm thức ra đi đã bám sâu trong cội nguồn của mỗi tâm thức, cho nên, kể từ khi cảm nhận được ngoại cảnh, trí óc con người đã bắt đầu đấu tranh, suy nghĩ để khơi nguồn cho hành trình ra đi ấy - một sự ra đi cứ xa mãi trung tâm của cuộc sinh hóa.
Ý thức con người là kẻ tiên phong cho hành trình viễn chinh của óc suy luận, để lại ở quê nhà gốc rễ tâm linh. Từ khi biết suy tư, trí óc con người luôn luôn muốn phần thắng về mình, nó ra đi với lòng háo hức. Nó hung hăng, mạo hiểm kiếm tìm chút bình yên trong Ảo Hóa. Đó là hình ảnh gã Cùng Tử trong kinh Pháp Hoa trải qua năm tháng, vì cuộc sinh tồn mà quên khuấy đi người cha già của mình; là thế giới nhị nguyên của các tư trào ở Tây phương, để rồi hình thành cái thế đối lập Duy tâm-Duy vật. Đứa con ra đi, tìm kiếm suốt bao dặm trường mà cái cơ hàn vẫn đeo đẳng, để mặc cha già luôn hướng vọng tìm con. Người cha vẫn hiển hiện đấy nhưng mà con nào đâu có thấy! Làm sao mà thấy được khi đứa con cứ đi xa mãi! Bao bụi trần đã lấp vết thời gian. Nó đã quen với cuộc sống cơ hàn tủi nhục, lòng nó choáng ngợp không dám đón nhận cái thân tình từ đấng Oai Nghiêm; cũng như trí óc con người đã quen với lối suy tư duy lý, nó không còn biết trực nhận linh cảm tươi nhuận từ bản thể thiêng liêng. Nó nhận thức sự vật thông qua những khái niệm, biểu tượng - đó là hình thức trừu tượng hóa cái đa thù. Cái đa thù trở thành khô chết trên mặt biểu tượng. Đứa con Ý Thức thông minh đã bị cơ giới hóa, lòng nó trở nên khô rạn như những cánh đồng hoang liêu dưới sức thiêu đốt của ngày hè. Những gì không thuộc phạm vi biểu tượng của nó thì nó không tiếp cận được. Nó không thấy, không biết. Nó như một người mù giữa đêm hội hoa đăng. Tất nhiên, đứa con không thấy được người cha bởi vì cha của nó tràn ngập cả hư không, phủ trùm mọi hệ thống biểu tượng èo uột. Cái rất lớn rất gần thì mắt thường không thể thấy được, nó trở thành cái mù mịt xa xăm.
Thứ Năm, tháng 3 09, 2006
BẠC ĐẦU NGÂM – QUYẾT BIỆT THƯ (Trác Văn Quân, Thiên Trác dịch)
Xuất xứ:
Tương Như nghèo khổ khảy bài Phượng cầu hoàng mà lấy được lòng Trác Văn Quân phú quý và cưới nàng về làm vợ, cuộc sống nghèo khổ qua ngày. Sau đó Hán Vũ Đế lên ngôi, Tương Như được làm Tư Mã. Thời gian Tương Như lên Trường An làm quan chừng đã 5, 6 năm, Trác Văn Quân nhiều lần gửi thư nhưng không được hồi đáp. Tư Mã Tương Như từ ngày phú quý quên tình vợ quê, muốn cưới người con gái ở Mậu Lăng làm thiếp. Tương Như bèn gửi cho Văn quân lá thư chỉ ghi một dãy số: "一、二、三、四、五、六、七、八、九、十、百、千、萬". (một, hai, ba, bốn,năm, sáu, bảy, tám, chin, mười, tram, ngàn, vạn). Trong dãy số đếm này thiếu chứ 億 (ức – trăm ngàn), chữ này còn có nghĩa là nhớ. Ý của Tư mã như thế đã rõ, ông không muốn nhớ đến tình nghĩa vợ chồng nữa. Văn Quân hiểu được ý đó nên làm bài Bạch Đầu Ngâm gửi cho Tư Mã và kèm thêm phong thư Quyết Biệt. Điều đáng nói là bài thơ của Văn Quân có thêm chữ ức (億), tức là vẫn nhớ đến tình nghĩa vợ chồng xưa. Tương Như đọc xong cảm được tình nghĩa ấy nên mới thôi cưới thiếp, sau đó rước Văn Quân lên Trường An.