Nghe chuông cửa Thiền
Thái Hư Đại Sư
Thanh Hòa dịch
Cửa thiền mấy dặm tùng xanh
Chùa xa lãng đãng vô ngần khói sương
Chỉ có tiếng chuông tỏ tường
Xa xa vọng lại dẫn đường khách đi.
松徑聞鐘
禪關五里植青松,
遠寺朦朧薄霧封;
獨有耳根無隔閡,
又聞送到一聲鐘。
Nghe chuông cửa Thiền
Thái Hư Đại Sư
Thanh Hòa dịch
Cửa thiền mấy dặm tùng xanh
Chùa xa lãng đãng vô ngần khói sương
Chỉ có tiếng chuông tỏ tường
Xa xa vọng lại dẫn đường khách đi.
松徑聞鐘
禪關五里植青松,
遠寺朦朧薄霧封;
獨有耳根無隔閡,
又聞送到一聲鐘。
Sông sâu đò vắng khó về
nên chưa biết mẹ bây giờ khỏe không?
nhớ mẹ đêm khóc giọt lòng
chỉ e mẹ nhớ con giòng lệ mưa.
—-Thanh Hòa dịch thơ của Nghê Thụy Tuyền, Vu Lan 2022
河广难航莫我过
未知安否近如何
暗中时滴思亲泪
只恐思儿泪更多。
—-倪瑞璿
Hà quảng nan hàng mạc ngã qua,
Vị tri an phủ cận như hà.
Ám trung thời đích tư thân lệ,
Chỉ khủng tư nhi lệ cánh đa!
—Nghê Thụy Tuyền
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường nhận thức không-thời gian như những sự vật hiện tượng có thật (thực thể). Dựa trên nhận thức đó, Nhất Thiết Hữu Bộ—một trường phái Phật Giáo thời kỳ đầu—chủ trương thời gian thực sự tồn tại qua ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai (tam thế thật hữu). Cũng như thế, trong Vật lý học cổ điển, không-thời gian cũng được xem là những định tính của thực tại.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào chiêm nghiệm thực tại bằng trí tuệ vô phân biệt, Phật Giáo Đại Thừa thấy rằng vạn vật liên quan mật thiết với nhau. Thế giới không còn là những cá thể riêng lẻ rời rạc mà là một thể dung nhiếp thống nhất. Không-thời gian do đó chỉ là những khái niệm mang tính quy ước không có thực thể. Để diễn bày cảnh giới này, Phật Giáo Đại Thừa nhiều khi phải phá vỡ những khái niệm khuôn mẫu mà dùng đến những hình thức phủ định. Không-thời gian vì thế trở thành phi không-thời gian. Bồ tát Long Thọ từng nói:
“Nhân sự hữu mà có thời gian, vậy lìa sự hữu thì làm sao có thời gian?
Không có sự hữu nào tồn tại, vậy từ đâu mà có thời gian?”[1]
- dịch thơ lục bát từ bài thơ Du tử ngâm của Mạnh Giao
Mẹ già nắn nót đường kim
May con chiếc áo ấm tình phong sương
Ra đi áo gửi dặm trường
Ngày về hẹn ước nẻo đường xa xăm.
Tấc lòng cỏ biếc bao lăm
Sánh sao vẻ đẹp xuân trăm nắng vàng!
-Đà Nẵng, Mùa Vu lan 2021 (8 August 2021).
遊子吟
孟郊
慈母手中線
遊子身上衣
臨行密密縫
意恐遲遲歸
誰言寸草心
報得三春暉.
Âm Hán Việt:
DU TỬ NGÂM
Mạnh Giao
Từ mẫu thủ trung tuyến,
Du tử thân thượng y;
Lâm hành mật mật phùng,
Ý khủng trì trì quy.
Thùy ngôn thốn thảo tâm,
Báo đắc tam xuân huy.
Xin chào nhau giữa ngày Xuân
Trong vườn cánh bướm ân cần đùa chơi
Nắng vàng lan toả muôn nơi
Cho hoa khoe thắm giữa đời chiêm bao
Chào nhau Xuân rộn ước ao
Nụ cười điểm nở với bao cõi lòng
Cuộc đời tựa những dòng sông
Có khi chìm nổi ruổi rong bến đời
Chào Xuân một thuở yêu người
Áo ai thấp thoáng giữa trời chao nghiêng
Xuân về nắng đổ bên hiên
Bâng khuâng Xuân vẫn như nhiên lối về.
- Nguyên Đán Tân Sửu - 2021
Duy Thức Phái là một trường phái Phật Giáo Đại Thừa chú trọng đến nhận thức luận. Kinh luận thuộc trường phái này thường nhấn mạnh rằng bất kì cái gì được kinh nghiệm, những cái mà thường được cho là chân thật, thực ra chỉ là một sự giả thác thuần túy ngôn ngữ (upacāra). Sự giả thác này là kết quả của quá trình phân biệt hay cấu trúc khái niệm diễn ra trên sự chuyển biến của thức. Vả lại, sự chuyển biến của thức cũng chỉ là một sự phân biệt mà sựphân biệt đó thậm chí không tồn tại.[1] Hay nói khác đi, toàn thể kinh nghiệm đó không là gì khác ngoài sự biểu hiện của thức.
Nếu toàn bộ kinh nghiệm chỉ là sự biểu hiện của thức, mà thức thậm chí cũng không thực hữu,[2] thế thì mọi nỗ lực của loài người cũng như toàn thể giáo pháp của đức Phật hướng tới điều gì? Có sự thật nào đáng quan tâm đằng sau cái thế giới biểu hiện của thức ấy?
Để trả lời những câu hỏi này, Duy Thức Phái đã đề xướng giáo lý ba tự tính như một khung sườn cho việc phát triển giáo nghĩa thức biến và trình bày quan điểm về nhận thức của mình. Giáo lý ba tự tính, vì thế, giữ một vai trò hết sức quan trọng trong truyền thống Duy Thức. Nó hiện diện trong hầu hết mọi tác phẩm thuộc truyền thống này, nhưcác kinh Giải Thâm Mật, Lăng-già; các luận Du-già Sự Địa, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh, Biện Trung Biên, Nhiếp, NhịThập, Tam Thập, và Tam Tự Tính.
Theo giáo nghĩa này, có ba tự tính hay bản chất (tri-svabhāva) đằng sau mọi hiện tượng. Hay nói cách khác, thực tại được cấu thành bởi ba đặc tính này. Đó là:
(1) tự tính biến kế sở chấp (parikalpita-svabhāva): tính chất vọng tưởng, huyễn hóa của các pháp;
(2) tự tính y tha khởi (paratantra-svabhāva): tính chất phụ thuộc vào cái khác để sinh khởi và tồn tại, hay còn gọi là duyên sinh;
(3) tự tính viên thành thật (pariniṣpanna-svabhāva): tính chất chân thật viên mãn của các pháp, cũng gọi là Chân Như.[3]
Bài viết này sẽ trình bày giáo lý ba tự tính qua các kinh luận tiêu biểu của Duy Thức Phái và đặc biệt so sánh làm nổi bật hai mô hình của giáo lý này.