Thứ Ba, tháng 1 19, 2021

BA TỰ TÍNH – BA CHIỀU KÍCH CỦA THỰC TẠI: Khảo sát giáo nghĩa Ba Tự Tính của Duy Thức Phái


1. Gi
i thiu

Duy Thc Phái là mt trường phái Pht Giáo Đại Tha chú trng đến nhn thc lun. Kinh lun thuc trường phái này thường nhn mnh rng bt kì cái gì được kinh nghim, nhng cái mà thường được cho là chân tht, thc ra ch là mt s gi thác thun túy ngôn ng (upacāra). S gi thác này là kết qu ca quá trình phân bit hay cu trúc khái nim dira trên s chuyn biến ca thc. V li, s chuyn biến ca thc cũng ch là mt s phân bit mà sphân biđó thm chí không tn ti.[1] Hay nói khác đi, toàn th kinh nghiđó không là gì khác ngoài s biu hin ca thc.

Nếu toàn b kinh nghim ch là s biu hin ca thc, mà thc thm chí cũng không thc hu,[2] thế thì mi n lc ca loài người cũng như toàn th giáo pháp cđức Pht hướng tđiu gì? Có s tht nào đáng quan tâm đằng sau cái thế gii biu hin ca thy? 

Để tr li nhng câu hi này, Duy Thc Phái đã đề xướng giáo lý ba t tính như mt khung sườn cho vic phát trin giáo nghĩa thc biến và trình bày quan đim v nhn thc ca mình. Giáo lý ba t tính, vì thế, gi mt vai trò hết sc quan trng trong truyn thng Duy Thc. Nó hin din trong hu hết mi tác phm thuc truyn thng này, nhưcác kinh Gii Thâm MtLăng-già; các luDu-già S Địa, Đại Tha Trang Nghiêm KinhBin Trung BiênNhiếpNhThpTam Thp, và Tam T Tính.

Theo giáo nghĩa này, có ba t tính hay bn cht (tri-svabhāvađằng sau mi hin tượng. Hay nói cách khác, thực tại được cu thành bi ba đặc tính này. Đó là:

(1) t tính biến kế s chp (parikalpita-svabhāva): tính cht vng tưởng, huyn hóa ca các pháp;

(2) t tính y tha khi (paratantra-svabhāva): tính cht ph thuc vào cái khác để sinh khi và tn ti, hay còn gi là duyên sinh;

(3) t tính viên thành tht (parinipanna-svabhāva): tính cht chân tht viên mãn ca các pháp, cũng gi là Chân Như.[3]

Bài viết này sẽ trình bày giáo lý ba tự tính qua các kinh luận tiêu biểu của Duy Thức Phái và đặc biệt so sánh làm nổi bật hai mô hình của giáo lý này.

2. Cu trúc tiêu chun ca giáo lý Ba T Tính

Theo lch sử phát triển, giáo nghĩa ba t tính tuy được hoàn thin và h thng hóa trong các tác phm ca Vô Trước và Thế Thân nhưng thc s đã có nn tng kinh đin t trong các kinh Đại tha như Gii Thâm M Lăng-già. Vì thế, trước khi đi vào kho sát giáo lý ba t tính trong các lun thư, chúng ta cũng nên tìm hiu xem khái nim ba ttính đã được phát biu như thế nào trong ng cnh kinh đin, c th  đây là Kinh Gii Thâm Mt.

2.1. Giáo lý ba t tính trong Kinh Gii Thâm Mt

Trong Kinh Gii Thâm Mt, mt trong nhng bn kinh sm nht xin dương giáo nghĩa Duy Thc, ba t tính được gi vi mt tên khác, đó là ba tướng (trilakaa/ ba du hiu, đặc tướng). Ba tướng này được trình bày như sau:

Tướng ca các pháp, nói mt cách khái quát, gm có ba loi. Ba loi là nhng gì? Mt là tướng biến kế schp, hai là tướng y tha khi, ba là tướng viên thành tht. Tướng biến kế s chp ca các pháp là gì? Đó là tùy theo s sai bit v bn cht ca các pháp mà gi lp tên gi cho đến tùy theo đó mà sn sinh ngôn ng. Tướng y tha khi ca các pháp là gì? Đó là bn cht duyên sinh ca các pháp; nghĩa là cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh; nghĩa là do vô minh làm duyên mà có hành, … cho đến chiêu tp hình thành toàn b kh un. Tướng viên thành tht là gì? Đó là Chân Như bình đẳng ca các pháp; các v b tát nh vào s [thc hành] dũng mãnh tinh tiến, suy tư đúng pháp, tư duy đúng đắn mà thông đạt cái Chân Như này; sau đó li dn dn tu tp s thông đạt này cho đến qu v B-đề vô thượng chánh đẳng; như thế s chng ng mđược viên mãn.[4]

Dưới con mt ca người hc Pht, tt c các pháp (gm các loi hu tình và vô tình) đềđược sinh ra bi shòa hp ca nhân duyên, và vì thế đều vô thường và vô ngã. Tuy nhiên, các loài chúng sinh có mt thiên hướng sâu dày đó là xem nhng th vô thường này là thường còn và chp trước chúng như nhng thc th tn tđộc lp. Chính từ sự chấp trước này mà mọi thứ sai biệt của thế giới khởi lên. Tuy nhiên, nhng sai bit này vn không phi là bn cht chân tht ca các pháp mà ch là s phn ánh sai lch qua chiếc lăng kính phân bit hay cu trúc thuc phm trù khái nim / ngôn ng (vikalpa). S sai bit do chp nim mang lđó được gi là tướng biến kế s chp.

Tính cht duyên sinh ca các pháp đượđề c trên là tướng y tha khi. Nói c th hơn, tướng y tha khi chính là giáo lý duyên khi. Bn cht ca thế gii là duyên sinh, là y tha khi, thế nhưng chúng sinh li dng lên trên đó mt thế gii biến kếthế giđược cu trúc bng khái nimvà t giam mình trong đó, xem cái thế gii do mình biến kế ra như là chân tht, để ri t đó khi lên các loi chp th, kh đau.

Tướng viên thành tht là trng thái mà khi mi s phân biđều dt bt, bn cht ca các pháp được thnghiđúng như chúng là. Đó cũng chính là trng thái giác ng ca mt hành gi đã gn lc cái thế gii biến kế ra khi thc ti y tha khi.

2.2. Giáo lý ba t tính trong Duy Thc Tam Thp Lun

V căn bn, giáo lý ba t tính không thay đổi mà ch được trình bày li mt cách có h thng hơn trong các lun thư Duy Thc Phái. Trong s các lun thư đề cđến giáo lý ba t tính, Tam Thp Lu(Triśikā-vijñapti-kārikā) ca Thế Thân là mt trường hđin hình cho s kin toàn đối vi giáo lý này. Trong tác phm gm 30 bài k tng này, ba t tính được ln lượt trình bày qua các k tng 20 và 21, đầu tiên là t tính biến kế s chp, như sau:

Bt k s vt hin tượng nào được phân bit bi s phân bit như vy như vy, cái đó có bn cht là biến kế s chp. Nó không thc s tn ti.[5]

Khi bình lun v t tính biến kế s chp, An Hu nói rng các pháp, dù ni hay ngoi (thân tâm hay ngoi vt), thm chí giáo pháp cđức Pht, tt c đều thuc phm vi phân bit. Nhng pháp như vy vn không hin hu bi chúng không thc s tn ti. S hin hu ca chúng cũng không có bn cht ca lý nhân quĐiu này cũng ging như đối vi s hin din của mt s vt, hoc s không hin hu ca nó, có nhiu s phân bit trái chiu nhau khi lên. Chng hn, dù trước mt không có cp, nhưng khi nghe ai đó nói có cp, lin tùy tính cách ca mi người mà trong h khi lên nhng cm giác s hãi hay phn khích khác nhau. S hin hu hay không hin hu ca mt s vt mà có nhiu tính cht khác nhau như vy là không hp lý. Cho nên, tt c nhng th đó ch là s phân bit thuc ttính biến kế s chp.[6]

Tiếp theo, t tính y tha khđược phát bi tng 21 như sau:

T tính y tha khi là s phân bit khi lên do duyên.[7]

Nếu t tính biến kế s chp có bn cht là hođộng phân bit ca tâm thc, không thuc quan h nhân qu, thì t tính y tha khi chính là nn tng t đó các pháp được sinh ra, là lý nhân qu. Y tha khi là s sinh ra do các duyên hay do s hòa hp ca nhân và duyên theo lý nhân qu.

Và cui cùng, t tính viên thành tht:

T tính viên thành tht là trng thái luôn luôn không có cái trước (t tính biến kế s chp) ca nó (t tính y tha khi).[8]

Như nhng gì được th hi câu tng trên, t tính viên thành tht chính là t tính y tha khi khi nó không còn b che ph bi t tính biến kế s chp. Điđó có nghĩa, s x tr hoàn toàn t tính biến kế s chp s tr t tính y tha khi v trng thái nguyên sơ ca nó, tc là t tính viên thành tht, bi t tính viên thành tht không là gì khác hơn t tính y tha khi trong trng thái không còn phân bit, không còn các s gi thác như là ngã và pháp.[9] Nói cách khác, t tính viên thành tht chính là s x ly hoàn toàn mi hình thc phân bit nh nguyên.

2.3. Giáo lý ba t tính trong Tam T Tính Lun

Bàn v giáo lý ba t tính, trong s các tác phm thuc Duy Thc Phái, Tam T Tính Lun (Tri-svabhāva-kārikā) vn thường được các nhà Pht hđương đại vin dn như mt tác phm tiêu biu. Bn lun gm 38 bài tng này thông thường đượđề là do tôn gi Thế Thân to.[10] Sau bài tng m đầu gii thiu chung v ba t tính, Tam TTính Lun dành hai bài tng tiếp theo để định nghĩa ba t tính như sau:

Cái mà nó trình hin là y tha khi, cách mà nó trình hin là biến kế s chp; bi vì s sinh khi [ca cái trước] ph thuc vào duyên, s tn ti [ca cái sau] ch là s biến kế.

Trng thái luôn luôn vng mt ca hình thc mà nó trình hin (yathā-khyāna/ biến kế s chp) ca cái trình hin (khyāt/ y tha khi) phđược hiu là t tính viên thành tht, bi tính cht không thay đổi ca nó. (Có th diđạt theo cách d hiu hơn: trng thái vĩnh vin không có hình thc trình hin ca cái trình hin phđược hiu là t tính viên thành tht; [nó được gi như thế] bi nó không bao gi thay đổi).[11]

 đây, ba t tính đượđịnh nghĩa tương t như trong Tam Thp Luđã được trình bày  trên. T tính biến kếs chđượđịnh nghĩa là cái biu hin ca s trình hin, tc là kết qu ca s biến kế. T tính y tha khi là s trình hin mang tính duyên sinh. T tính viên thành tht chính là trng thái mà t tính y tha khi vĩnh vin không còn ttính biến kế s chp.

Như vy, qua nhng định nghĩa v ba t tính được trích dn t các tác phm tiêu biu trên, có th thy rng, ttính y tha khi—tc là bn cht ph thuc vào duyên mà sinh khi ca các pháp—có th được biu hin dưới hai hình thc: hoc là s biến kế (phân bit) ca tâm thc, hoc là s vng bt các hođộng ca tâm thc. Điđó có nghĩa, khi thc ti, vn là y tha khi, được nhn thc bi s phân biđốđãi, bi s gi thác ngã và pháp, nó s tr thành thế gii biến kế s chp—thế gii trong mt k mê. Trái li, khi nhn thc không còn b nhum màu bi các hođộng phân bit, ch còn là nhn thc thun túy, thc ti y tha khi s tr thành thế gii viên thành tht, nó s được nhn thc như chính nó là—thế gii trong mt bc giác ng. Có th nói, cái thy có hay không có s phân bit là hai mt ca cuc sng, mt bên là sinh t luân hi và mt bên là niết bàn gii thoát. V đim này, Nhiếp Lun nhđịnh:

Do mt ý gì  trong Kinh Phm Thiên S Vn[12] Đức Thế Tôn nói rng Như Lai không thy sinh t cũng không thy niết bàn? Đó là do mt ý rng  trong t tính y tha khi, mà bn thân nó va là t tính biến kế s chp va là t tính viên thành tht, sinh t và niết bàn vn không sai bit. Vì sao vy? Vì t t tính y tha khi này, phn biến kế s chp tr thành sinh t, phn viên thành tht tr thành niết bàn.[13]

Thế gii tuy được quan nim là được cu thành da trên ba t tính này nhưng không phi có ba thc ti riêng bit xếp chng lên nhau. Thế gii vn luôn là mt. Có điu, tùy theo tâm chúng ta, ngoi hin ca nó có th thay đổi t phm trù này sang phm trù khác tương ng vi ba t tính mà t thân nó vn không thay đổi. Hay nói khác đi, mt người có th nhn thc mt s vt hin tượng qua ba góc độ khác nhau, đó là s vt hin tượng như là kết qu ca sbiến kế, s vt hin tượng sinh khi do duyên, và s vt hin tượng như chính bn thân nó. Kh năng thay đổi ca các t tính hay các phm trù thc ti trong mi tương quan vi người quan sát này chính là cơ s cho giáo lý chuyn y, cho s chuyn thc thành trí, chuyn mê thành ng, chuyn luân hi thành niết bàn.

3. Hai mô hình giáo lý ba t tính

Trên đây là ba t tính được trình bày theo quan đim ph thông vi mô hình tiêu chuđược trình bày trong Tam Thp Lun, mt quan đim ly t tính y tha khi làm nn tng cho t tính biến kế s chp cũng như t tính viên thành tht, theo đó t tính y tha khi là căn bn cho sinh t cũng như niết bàn. Tuy nhiên, đó không phi là cách hiu duy nht v giáo nghĩa ba t tính bi trong h thng lun gii ca Duy Thc Phái còn có nhng hình thc trình bày khác v giáo nghĩa này, thm chí s khác biđó có khi xy ra ngay trong cùng mt bn văn.[14] Nhđịnh v hin tượng này, Sponberg cho rng s không nht quán này phn ánh s phát trin qua tng giai đon ca giáo nghĩa ba ttính và ông đưa ra hai mô hình khái quát cho giáo nghĩa này, đó là mô hình ‘xu chuyn’ và mô hình ‘tim tiến’.[15]

3.1. Mô hình Xu chuyn

Mô hình xu chuyn (pivotal model) là cách lý gii giáo lý ba t tính dưới hình thái dao động quanh trc, theo đó, t tính biến kế s chp và t tính viên thành thđược xem như hai khía cnh khác nhau ca t tính y tha khi. mô hình này, t tính y tha khđược hiu như là s tht căn bn—mi tương quan duyên sinh—ca các pháp và làm nn tng cho hai t tính còn li. Khi s tht duyên sinh—t tính y tha khi—b nhn thc sai lm qua chiếc lăng kính nh nguyên, qua s gi thác ngã và pháp, qua s biến kế và ngôn ngđó chính là t tính biến kế s chp. Ngược li, khi gt b nhng tương quan đốđãi mang tính nh nguyên, thoát khi ma trn ca biến kế và ngôn ng, s tht shin hin như chính nó, đó chính là t tính viên thành tht. S dch chuyn t mt bên sai lm sang mt bên chân tht này chính là s chuyn y (āśraya-parāvtti), mt s chuyđổi t trong nhn thc căn bđối vi thế gii và là nn tng cho mi s giác ng gii thoát. 

Theo mô hình xu chuyn, t tính y tha khi vn luôn hin din như mt s tht ti hu hin nhiên.[16] Tuy nhiên, tùy theo cách chúng ta tiếp nhn thế gii mà có s sai khác. Mê thì thế gii hin hin sai lch trong t tính biến kế s chp, ng thì thế gii hin hin tròn đầy trong t tính viên thành tht. Đây chính là mô hình ba t tính được trin khai trong Nhiếp Lun và Tam Thp Lumà  trên đã trích ví d minh ha. Do tính ph biến ca hai tác phm này, hay đúng hơn, do tư tưởng Duy Thđược phát triđến giai đon sung mãn bi hai anh em nhà Thế Thân, mô hình xu chuyđược trình bày trong các tác phm ca hai tôn gi này đã tr thành mô hình tiêu biu cho giáo nghĩa ba ttính.[17] Chính t mô hình xu chuyđược xem là tiêu biu này mà Nagao có nhđịnh v giáo lý ba t tính như sau:

Theo thuyết ba t tính, thế gii xoay quanh t tính y tha khi như th xoay quanh mt chiếc trc. T tính y tha khi là nn tng mà t trên đó t tính biến kế s chp (hay sinh t luân hi) chuyn biến và t tính viên thành tht (hay niết bàn) xut hin.[18]

3.2. Mô hình Tim tiến

Khác vi tính đối xng ca mô hình xu chuyn, mô hình tim tiến (progressive model) phn ánh tiến trình đi lên ca nhn thc hay s giác ng ln lượt qua ba cđộ tương ng vi ba t tính, t mê tiến dđến ng. Theo trình t, hành gi phi tr b t tính biến kế s chp và y tha khđể đạđến t tính viên thành tht. K mê nhn thc thếgii trong mi tương quan đốđãi nh nguyên được hình thành do s phân bit hư vng. Đó là t tính biến kế s chp. Qua s tu tp, tiến lên mt bước, hành gi nhn thc và tr dit ch y c ca mi s đốđãi nh nguyên, tc là bn thân s phân bit hư vng. Đó là t tính y tha khi. Cui cùng là t tính viên thành tht, đó là trng thái xa lìa mi vng chp nh nguyên, thoát khi ma trn ca biến kế và ngôn ng, vượt lên trên cái thế gii gi to bi duyên sinh; là trí vô phân bit v thc ti, v Chân Như.

Trong s kinh lun ca Duy Thc Phái, Trang Nghiêm Kinh Lucó th được xem là trường hđin hình nói về mô hình tim tiến này. Phm Thut Cu ca b lun này trình bày ba t tính như sau:

S phân bit hư vng được xem như trò o thut (māyā); tương t, s mê lm nh nguyên thì ging nhưcái được to ra bi trò o thut (māyā-kta).

S phân bit hư vng—t tính y tha khi, cái gây ra s mê lm—nên được xem như trò o thut, cái được to ra t mt cành cây hoc mt cđất sét… thông qua chú thut. S mê lm nh nguyên—trng thái biu hin ca t tính biến kế s chp, cái trình hin như năng th và s th trong s phân bit hưvng—nên được hiu như là cái được to ra bi trò o thut, ví d như, hình nh mt con voi, mt con nga, hay vàng… mà chúng xut hin trong trò o thut.[19]

S không tn ti ca [s vt hư vng] trong [trò o thut] nên được hiu là chân lý tuyđối. Snhn thc v [s vt hư vng] trong [trò o thut] đó nên được hiu là chân lý tương đối.

Ging như con voi và các th khác không tn ti trong trò o thut, cũng vy, chân lý tuyđối (ttính viên thành tht) là cái phi hu ca t tính biến kế s chp nh nguyên trong t tính y tha khđó. Mt khác, ging như có s nhn thc v con voi và các th khác xut hin trong trò o thuđó, cũng vy, chân lý tương đối là s nhn thc v cái hư vng (t tính biến kế s chp) trong s phân biđó (ttính y tha khi).[20]

Đối chiếu hai mô hình, đim ni bt chính là s khác nhau trong cách phát biu v t tính y tha khi.  mô hình xu chuyn, t tính y tha khi là lý duyên sinh nm sau mi hin tượng, là nn tng cho c sinh t—t tính biến kếs chp—và niết bàn—t tính viên thành tht. Do t tính y tha khđượđồng nht vi lý duyên khi nên Nhiếp Lungi nó là t tính y tha khi mt phn thanh tnh.[21] Gt b phn nhim ô, tc t tính biến kế s chp, thì t tính y tha khi vn thanh tnh hin hin thành t tính viên thành tht. Trong khi đó,  mô hình tim tiến, t tính y tha khi ch là bước trung gian—mt trng thái có bn cht là nn tng cho s mê lm cđược loi tr—trên l trình giác nggii thoát t sinh t đến niết bàn, t ô nhiđến thanh tnh. Trang Nghiêm Kinh Lun đã nhđịnh nó là “nn tng cho mê lm” và “cđượđon tr” như sau:

Chân lý là cái mà nó (1) vĩnh ly nh nguyên, (2) làm nn tng cho mê lm, và (3) hoàn toàn không thdin t, xa lìa hý lun. Nó (1) cđược nhn biết, (2) cđượđon tr, và (3) cđược thanh tnh. Nó vn thanh tnh bi xa lìa cu uế, ging như hư không, vàng, và nước.[22]

Mđiđáng ngc nhiên, mô hình tim tiến cũng hin din trong Tam T Tính Lun, mt bn lun thường được xem là tác phm cuđời ca tôn gi Thế Thân.[23] Nói ngc nhiên bđiđó s làm mđi tính thng nht trong quan đim ca Thế Thân v giáo lý ba t tính, cái đã được xác lp trong Tam Thp Lun—mt tác phđược xem là chín mui v mt tư tưởng ca tôn gi.

 phđầu cTam T Tính Lun, ba t tính được trình bày không khác vi mô thc xu chuyn trong Tam Thp Lun; tuy nhiên, t bài tng th 17, ba t tính được chuyn hướng trình bày theo mô hình tim tiến mt cách khác l.[24] Bài tng 17 cTam T Tính Lun nói:

Biến kế s chp và y tha khi nên được biết là có tính cht nhim ô. T tính viên thành thđược xem là có tính cht thanh tnh.[25]

Ba t tính tiếp tđược khng định theo mô hình tim tiế tng th 31:

Để thông đạt tht lý, ba khía cnh phđược nhn thc, tr b, và thành tđồng thi theo trình t đó.[26]

Như vy, vi vic xem t tính y tha khi là ô nhim và cđượđon tr, cu trúc giáo lý ba t tính cTam T Tính Lun đã không còn mang tính đối xng ca mô hình xu chuyn mà có hướng tim tiến theo trình t cái sau loi tr cái trước. Đây là mđim khác biđáng quan tâm giTam T Tính Lun và các tác phm khác ca ThếThân v giáo lý ba t tính.

Nói tóm li, tri qua lch s phát trin ca Duy Thc Phái, giáo lý ba t tính được hình thành và hoàn thin theo thi gian mà đỉnh đim là s kin toàn ca tôn gi Thế Thân qua luTam Thp Lun. S khác nhau gia hai mô hình ba t tính cũng nói lên s khác nhau t góc nhìn v thc ti. Vi t tính y tha khi làm nn tng cho mi s tht, gm c sinh t ln niết bàn, mô hình xu chuyn có th được xem như cái nhìn mang tính bn th lun. Tuy nhiên, để thnghiđược thc ti thanh tnh vượt ra ngoài mi s đốđãi nh nguyên ca t tính viên thành tht, hành gi cn phi thc hành quá trình tu quán và tri nghim s chng đắc theo trình t t mê đến ng ca mô hình tim tiến mang hơi hướng ca gii thoát lun. Và như vy, dù ba t tính được gii thích theo mô hình nào thì đó cũng là nhng góc nhìn giúp hành gi nhìn thu và th nghiđược chân lý thc ti, nó không loi tr nhau mà b sung cho nhau.

4. Kết lun

Như đã nói, tôn ch ca Duy Thc Phái là mang li mt cái thy trong sáng không b các kiến chp phân bit làm vđục, mt cái thđúng như thđối vi các pháp. Theo giáo lý ba t tính, chúng ta trôi lăn trong sinh t hay gii thoát trong niết bàn đều ph thuc vào cách chúng ta nhn thc thế gii. Đim then cht cn phi nhn ra, gii thoát là mt cnh gii ca s tn dit nhng thiên kiến vng chp mang tính đốđãi nh nguyên, x tr mi gi thác ngã và pháp. Đây cũng chính là ý nghĩa tu tp ca giáo lý ba t tính.  phương din này, giáo lý ba t tính tr thành mt công c tu quán đắc lc giúp hành gi quán chiếu bn cht ca các pháp, hiđược sinh t và niết bàn là hai mt ca cuc sng, là hai thc ti song hành—mt bên là thế gii kinh nghim thuc tđế, và bên còn li là thế gii siêu nghim thuc chân đế.

Thích Thanh Hòa (TP. Đà Nng)

(Đã đăng Nguyệt san Giác Ngộ số 298-299).

 

Tham kho:

Giải Thâm Mật Kinh [解深密經]. Hán Dịch bởi Pháp sư Huyền Trang. 5 quyển, Đại Chính 16, số 676.

Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn Kinh [持心梵天所問經]. Hán Dịch bởi Tam Tạng Trúc Pháp Hộ. 4 quyển, Đại Chính 15, số 585.

Tư Ích Phạm Thiện Sở Vấn Kinh [思益梵天所問經]. Hán Dịch bởi Tam Tạng Cưu-ma-la-thập. 4 quyển, Đại Chính 15, số 586.

Anacker, Stefan. Seven Works of Vasubandhu: The Buddhist Psychological Doctor. Rev. ed. Delhi: Motilal Banarsidass, 2005.

Asaga. A Compendium of the Mahāyāna: Asaga’s Mahāyānasagraha and Its Indian and Tibetan Commentaries. Translated by Karl Brunnhölzl. 3 vols. Boulder: Snow Lion, 2018.

———. Mahāyāna-Sūtrālakāra. Edited by Sylvain Lévi. Paris: Librairie Honoré Champion, 1907.

Boquist, Åke. Trisvabhāva: A Study of the Development of the Three-Nature-Theory in Yogācāra Buddhism. Sweden: University of Lund, 1993.

Cảnh-Tình. "Biện Trung Biên Luận Tụng Văn Trung Đích Lưỡng Chủng Duy Thức Tam Tính Thuyết Mô Hình." [辯中邊論頌文中的兩種唯識三性說模型]. 臺大佛學研究, no. 28 (臺灣大學文學院佛學研究中心: 2014): 51-104.

D'Amato, Mario. Maitreya's Distinguishing the Middle from the Extremes (Madhyāntavibhāga) Along with Vasubandhu's Commentary (Madhyāntavibhāga-Bhāya): A Study and Annotated Translation. New York: The American Institute of Buddhist Studies, 2012.

———. "Three Natures, Three Stages: An Interpretation of the Yogācāra Trisvabhāva-Theory." Journal of Indian Philosophy 33, no. 2 (2005): 185-207.

Di Lặc, Bồ tát. Du-già Sư Địa Luận [瑜伽師地論]. Hán Dịch bởi Pháp sư Huyền Trang. 100 quyển, Đại Chính 30, số 1579.

Kapstein, Matthew T. "Who Wrote the Trisvabhāvanirdeśa? Reflections on an Enigmatic Text and Its Place in the History of Buddhist Philosophy." Journal of Indian Philosophy 46 (2018): 1-30.

Mạnh Thát, Lê. Triết Học Thế Thân. Dịch bởi Đạo Sinh. Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, 2005.

McNamara, Daniel. "On the Status of the Trisvabhāvanirdeśa in Contemporary Conceptions of Yogācāra Thought." (2011). http://www.academia.edu/8365343/ (accessed July 31, 2020).

Nagao, G. M. Mādhyamika and Yogācāra: A Study of Mahāyāna Philosophies. Edited by L. S. Kawamura. Albany: State University of New York Press, 1991.

Sponberg, Alan. "The Trisvabhāva Doctrine in India and China: A Study of Three Exegetical Models." Ryūkoku daigaku bukkyō bunka kenkyūjo kiyō 21 (1982): 97-119.

Sthiramati. Triśikāvijñaptibhāya. In Sthiramati's Triśikavijñaptibhāya—Critical Edition of the Sanskrit Text and its Tibetan Translation. Edited by Hartmut Buescher. Wien: ÖAW, 2007.

Thế Thân, Tôn giả. Duy Thức Tam Thập Luận Tụng [唯識三十論頌]. Hán Dịch bởi Pháp sư Huyền Trang. 1 quyển, Đại Chính 31, số 1586.

Tzohar, Roy. "Thoughts on the Early Indian Yogācāra Understanding of Āgama-Pramāa." Kervan - International Journal of Afro-Asiatic Studies 21 (2017): 261-277.

———. A Yogācāra Buddhist Theory of Metaphor. New York: Oxford University Press, 2018.

Vasubandhu. Madhyāntavibhāga-Bhāya. Edited by Gadjin M. Nagao. Tokyo: Suzuki Research Foundation, 1964.

———. Triśikāvijñaptikārikā. In Seven Works of Vasubandhu. Edited by Stephan Anacker. Rev ed., 422-3. Delhi: Motilal Banarsidass, 2005.

———. Trisvabhāvakārikā. In Being as Consciousness: Yogācāra Philosophy of Buddhism. Edited by Fernando Tola & Carmen Dragonetti. 219-228. New Delhi: Motilal Banarsidass, 2004.

Vô Tánh, Bồ tát. Nhiếp Đại Thừa Luận Thích [攝大乘論釋]. Hán Dịch bởi Pháp sư Huyền Trang. 10 quyển, Đại Chính 31, số 1598.

Vô Trước, Bồ Tát. Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận [大乘莊嚴經論]. Hán Dịch bởi Ba-la-phả-mật-đa-la. 13 quyển, Đại Chính 31, số 1604.

———. Nhiếp Đại Thừa Luận [攝大乘論]. Hán Dịch bởi Chân Đế. 3 quyển, Đại Chính 31, số 1593.

———. Nhiếp Đại Thừa Luận Bổn [攝大乘論本]. Hán Dịch bởi Pháp sư Huyền Trang. 3 quyển, Đại Chính 31, số 1594.

Williams, Paul. Mahāyāna Buddhism: The Doctrinal Foundations. 2nd ed. New York: Routledge, 2009.

 



[1] Vasubandhu, Trisvabhāvakārikā, trong Being as Consciousness: Yogācāra Philosophy of Buddhism, ed. Fernando Tola and Carmen Dragonetti (New Delhi: Motilal Banarsidass, 2004), k. 5: asatkalpo 'tra kaścitta yatastena hi kalpyate | yathā ca kalpayatyartha tathātyanta na vidyate || Sự biến kế hư vọng là gì? Đó là thức, bởi qua nó (thức) mà nó (sự biến kế hư vọng) được biến kế. Cái mà trong đó nó (thức) biến kế đối tượng, cái đó tuyệt đối không tồn tại.

[2] Madhyāntavibhāga-Bhāya, ed. Gadjin M. Nagao (Tokyo: Suzuki Research Foundation, 1964), I.3, 19: tasya grāhyasyārthasyābhāvāt tad api grāhaka vijñānam asat | Do bởi sự không tồn tại của đối tượng sở thủ nên thậm chí thức năng thủ cũng không tồn tại.

[3] Bồ tát Vô Trước, Nhiếp Đại Thừa Luận Bổn [攝大乘論本], Pháp sư Huyền Trang dịch Hán, 3 quyển, Đại 31, số 1594, 139b06-09: 若圓成實自性。是遍計所執永無有相。云何成圓成實。何因縁故名圓成實。由無變異性故。名圓成實。又由清淨所縁性故。一切善法最勝性故。由最勝義名圓成實/ Nếu tự tính viên thành thật là sự thiếu vắng hoàn toàn tự tính biến kế sở chấp nơi tự tính y tha khởi, vậy tự tính viên thành thật là gì, do nhân duyên gì mà gọi là viên thành thật? Do nó có tính chất không biến dị nên gọi là viên thành thật. Lại nữa, do nó làm đối tượng sở duyên của pháp thanh tịnh và là tối thắng trong các thiện pháp về mặt thắng nghĩa nên gọi là viên thành thật.

Vô Tánh chú thích thêm rằng: [由無變異性故名圓成實等者]。應知此性。常無變故。又由清淨所縁性故。一切善法最勝性故。圓滿成就眞實爲性/ [Do nó có tính chất không biến dị nên gọi là viên thành thật… ]. Nên biết, do có tính chất thường hằng bất biến, lại là sở duyên của pháp thanh tịnh và là tối thắng trong các thiện pháp nên tự tính này có tính chất viên mãn, thành tựu và chân thật (Bồ tát Vô Tánh, Nhiếp Đại Thừa Luận Thích [攝大乘論釋], Pháp sư Huyền Trang dịch Hán, 10 quyển, Đại 31, số 1598, 403b28-c01). Cũng xem thêm Asaga, A Compendium of the Mahāyāna: Asaga’s Mahāyānasagraha and Its Indian and Tibetan Commentaries, trans. Karl Brunnhölzl, 3 vols. (Boulder: Snow Lion, 2018), vol. I, 186.

[4] Giải Thâm Mật Kinh [解深密經], Pháp sư Huyền Trang dịch Hán, 5 quyển, Đại 16, số 676, 693a15-25: 謂諸法相略有三種,何等為三?一者、遍計所執相;二者、依他起相;三者、圓成實相。云何諸法遍計所執相?謂一切法名假安立自性差別,乃至為令隨起言說。云何諸法依他起相?謂一切法緣生自性,則此有故彼有,此生故彼生,謂無明緣行,乃至招集純大苦蘊。云何諸法圓成實相?謂一切法平等真如。於此真如,諸菩薩眾勇猛精進為因緣故,如理作意,無倒思惟為因緣故,乃能通達。於此通達,漸漸修集,乃至無上正等菩提方證圓滿.

[5] yena yena vikalpena yad yad vastu vikalpyate | parikalpita evāsau svabhāvo na sa vidyate || 由彼彼遍計,遍計種種物,此遍計所執,自性無所有 (Vasubandhu, Triśikāvijñaptikārikā, trong Seven Works of Vasubandhu, ed. Stephan Anacker, Rev ed. (Delhi: Motilal Banarsidass, 2005), k. 20; Tôn giả Thế Thân, Duy Thức Tam Thập Luận Tụng [唯識三十論頌], Pháp sư Huyền Trang dịch Hán, 1 quyển, Đại 31, số 1586, tụng 20).

[6] Xem thêm Sthiramati, Triśikāvijñaptibhāya, trong Sthiramati's Triśikavijñaptibhāya—Critical Edition of the Sanskrit Text and its Tibetan Translation, ed. Hartmut Buescher (Wien: ÖAW, 2007), *43.

[7] paratantra-svabhāvastu vikalpa pratyaya-udbhava | 依他起自性分別緣所生 (Vasubandhu, TriśK, k. 21ab; Thế Thân, Tam Thập Luận, tụng 21ab).

[8] nipannas-tasya pūrvea sadā rahitatā tu yā || 圓成實於彼常遠離前性 (Vasubandhu, TriśK, k. 21cd; Thế Thân, Tam Thập Luận, tụng 21cd).

[9] Giả thác như là ngã và pháp (ātma-dharma-upacāra / 假說我法). Giả thuyết / giả thác (假說 / 假託 /hư cấu, không thật), sự giả thác thuần túy ngôn ngữ, sự mô tả, ẩn dụ… là những từ / cụm từ được dùng để dịch từ upacāra trong cụm từ ātma-dharma-upacāraUpacāra vốn là điểm nhấn trong thuyết mô tả của Thế Thân nói riêng, trong tư tưởng Duy Thức Phái nói chung, cho nên bản thân từ này hàm chứa ý nghĩa sâu xa rất khó để chuyển dịch. Đó là lý do khiến từ Đông sang Tây, mỗi dịch giả có mỗi sự lựa chọn không giống nhau. Xem thêm sự khảo cứu rộng rãi về khái niệm này qua chuyên khảo A Yogācāra Buddhist Theory of Metaphor (New York: Oxford University Press, 2018) của Roy Tzohar, hay Chương “Về tự biết và bàn thêm về cơ cấu tự biết” trong Triết Học Thế Thân, Đạo Sinh dịch (Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, 2005), 313tt của Lê Mạnh Thát.

[10] Bản luận gồm 38 bài tụng này thông thường được đề là do tôn giả Thế Thân tạo. Tuy nhiên, với những điều bất thường trong lịch sử truyền thừa, cấu trúc nội dung cũng như hành văn mà Kapstein từng chỉ ra, vai trò tác giả của Thế Thân đối với bản luận này cũng đáng được cân nhắc lại. Kapstein đã lần lượt phân tích các yếu tố mà ông cho rằng chúng cho thấy tác giả của Tam Tự Tính Luận là một người khác chứ không phải Thế Thân, hay ít ra không phải Thế Thân của Câu-xá và Tam Thập Luận, mặc dù quan điểm này không hợp nhất với hầu hết các nhà nghiên cứu đi trước. Ông chỉ ra sự không nhất quán giữa Tam Tự Tính Luận với các tác phẩm khác của Thế Thân về mô hình ba tự tính, giáo lý đốn ngộ, cách dùng động từ trình hiện (khyā). Bên cạnh đó, sự thiếu vắng trong lịch sử Hán dịch, đề tên tác giả khác nhau trong hai bản dịch Tạng cũng là hai yếu tố bất thường khác thuộc phạm vi lịch sử. Xem Matthew T. Kapstein, "Who Wrote the Trisvabhāvanirdeśa? Reflections on an Enigmatic Text and Its Place in the History of Buddhist Philosophy," Journal of Indian Philosophy 46 (2018); Daniel McNamara, "On the Status of the Trisvabhāvanirdeśa in Contemporary Conceptions of Yogācāra Thought," (2011), http://www.academia.edu/8365343/ (accessed July 31, 2020).

[11] yat khyāti paratantro ʼsau yathā khyāti sa kalpita | pratyaya-adhīna-vttitvāt kalpanā-mātra-bhāvata ||2|| tasya khyātur yathā-khyāna yā sadā-avidyamānatā | jñeya sa parinipanna svabhāvo ʼnanyathātvata ||3|| (Vasubandhu, Trisvabhāvakārikā, k. 2-3).

[12] Xem chi tiết Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn Kinh [持心梵天所問經], Tam Tạng Trúc Pháp Hộ dịch Hán, 4 quyển, Đại 15, số 585, 4b23-24; Tư Ích Phạm Thiện Sở Vấn Kinh [思益梵天所問經], Tam Tạng Cưu-ma-la-thập dịch Hán, 4 quyển, Đại 15, số 586, 36c09-15.

[13] 世尊依何密意。於梵問經中説。如來不得生死不得涅槃。於依他起自性中。依遍計所執自性及圓成實自性。生死涅槃無差別密意。何以故。即此依他起自性。由遍計所執分成生死。由圓成實分成涅槃故 (Vô Trước, Nhiếp Luận Bổn, 140c01-06). Cũng xem thêm Nhiếp Đại Thừa Luận [攝大乘論], Chân Đế dịch Hán, 3 quyển, Đại 31, số 1593, 120c28-a03; Asaga, A Compendium of the Mahāyāna, II.28, 192.

[14] Mario D'Amato, Maitreya's Distinguishing the Middle from the Extremes (Madhyāntavibhāga) Along with Vasubandhu's Commentary (Madhyāntavibhāga-Bhāya): A Study and Annotated Translation (New York: The American Institute of Buddhist Studies, 2012), 18.

Về sự thiếu thống nhất trong cách trình bày giáo lý ba tự tính xảy ra trong cùng một văn bản, có ý kiến cho rằng những bản văn như vậy, cụ thể như Biện Trung Biên Luận, thể hiện tính đa tầng hay hỗn tạp trong quá trình kết tập và biên soạn. Xem Cảnh-Tình, "Biện Trung Biên Luận Tụng Văn Trung Đích Lưỡng Chủng Duy Thức Tam Tính Thuyết Mô Hình," [辯中邊論頌文中的兩種唯識三性說模型], 臺大佛學研究, no. 28 (臺灣大學文學院佛學研究中心: 2014): 93.

[15] Alan Sponberg, "The Trisvabhāva Doctrine in India and China: A Study of Three Exegetical Models," Ryūkoku daigaku bukkyō bunka kenkyūjo kiyō 21 (1982) Sau Sponberg, hai mô hình này cũng được nhiều nhà nghiên cứu hiện đại tiếp nhận để giải thích sự đa dạng trong cách trình bày giáo nghĩa ba tự tính trong các bộ luận của Duy Thức Phái, trong đó có thể kể đến Mario D'Amato, Daniel McNamara, Roy Tzohar, Matthew T. Kapstein… Xem thêm: Kapstein, "Who Wrote the Trisvabhāvanirdeśa? Reflections on an Enigmatic Text and Its Place in the History of Buddhist Philosophy; Mario D'Amato, "Three Natures, Three Stages: An Interpretation of the Yogācāra Trisvabhāva-Theory," Journal of Indian Philosophy 33, no. 2 (2005); McNamara, "On the Status of the Trisvabhāvanirdeśa in Contemporary Conceptions of Yogācāra Thought"; Roy Tzohar, "Thoughts on the Early Indian Yogācāra Understanding of Āgama-Pramāa," Kervan - International Journal of Afro-Asiatic Studies 21 (2017).

[16] Về điểm này, Du-già Sư Địa dành riêng phẩm Chân Thật Nghĩa (cụ thể, phần phá quan điểm hư vô) để khẳng định đằng sau các hiện tượng hư giả luôn tồn tại một cái chân thật. Tóm tắt ý đó trong mối tương quan với ba tự tính, Williams nhận định: “Phải tồn tại một nền tảng chân thật, bởi nếu không có một nền tảng chân thật thì cái cấu trúc sai lầm—tự tính biến kế sở chấp—không thể xảy ra.” Bồ tát Di Lặc, Du-già Sư Địa Luận [瑜伽師地論], Pháp sư Huyền Trang dịch Hán, 100 quyển, Đại 30, số 1579, 488b18-c2; Paul Williams, Mahāyāna Buddhism: The Doctrinal Foundations, 2nd ed. (New York: Routledge, 2009), 91.

[17] D'Amato đã phác thảo lịch sử phát triển của Duy Thức Phái tại Ấn Độ thành ba giai đoạn: giai đoạn sơ khai gồm Kinh Giải Thâm Mật và Luận Du-già Sư Địa, giai đoạn thứ hai tiêu biểu bởi Trang Nghiêm Kinh Luận và những bộ luận tương tự, giai đoạn cuối gồm các tác phẩm chín muồi của hai anh em nhà Vô Trước – Thế Thân. Xem D'Amato, "Three Natures, Three Stages: An Interpretation of the Yogācāra Trisvabhāva-Theory," 188.

[18] G. M. Nagao, Mādhyamika and Yogācāra: A Study of Mahāyāna Philosophies, ed. L. S. Kawamura (Albany: State University of New York Press, 1991), 11.

[19] yathā māyā tathā'bhūtaparikalpo nirucyate | yathā māyākta tadvat dvayabhrāntirnirucyate || 

yathā māyā yantraparighīta bhrāntinimitta kāṣṭhaloṣṭādika tathābhūtaparikalpa paratantra svabhāvo veditavya | yathā māyākta tasyā māyāyā hastyaśvasuvarādyāktis tadbhāvena pratibhāsitā tathā tasminn abhūtaparikalpe dvayabhrāntirgrāhyagrāhakatvena pratibhāsitā parikalpitasvabhāvākārā veditavyā | Asaga, Mahāyāna-Sūtrālakāra, ed. Sylvain Lévi (Paris: Librairie Honoré Champion, 1907), xi.15. Hán dịch tương đương: 偈曰。如彼起幻師。譬說虛分別。如彼諸幻事。譬說二種迷。釋曰。如彼起幻師譬說虛分別者。譬如幻師依呪術力變木石等以為迷因。如是虛分別依他性亦爾。起種種分別為顛倒因。如彼諸幻事譬說二種迷者。譬如幻像金等種種相貌顯現。如是所起分別性亦爾。能取所取二迷恒時顯現。(Bồ Tát Vô Trước, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận [大乘莊嚴經論], Ba-la-phả-mật-đa-la dịch Hán, 13 quyển, Đại 31, số 1604, 611b20-27).

[20] yathā tasmin na tadbhāva paramārthas tatheyate | yathā tasyopalabdhis tu tathā savtisatyatā ||

yathā tasmin na tadbhāvo māyākte hastitvādyabhāvas tathā tasmin paratantre paramārtha iyate parikalpitasya dvayalakaasyābhāva | yathā tasya māyāktasya hastyādibhāvenopalabdhis tathābhūtaparikalpasya savtisatyatopalabdhiAsaga, MSA, xi.16. Hán dịch: 偈曰。如彼無體故。得入第一義。如彼可得故。通達世諦實。釋曰。如彼無體故得入第一義者。如彼謂幻者幻事無有實體。此譬依他分別二相亦無實體。由此道理即得通達第一義諦。如彼可得故通達世諦實者。可得謂幻者幻事體亦可得。此譬虛妄分別亦爾。由此道理即得通達世諦之實。(Vô Trước, Trang Nghiêm Kinh Luận, 611b28-c06).

[21] Nhiếp Luận Bổn此中生死謂依他起性雜染分。涅槃謂依他起性清淨分/ trong đây, sinh tử nghĩa là phần ô nhiễm của y tha khởi, niết bàn nghĩa là phần thanh tịnh của y tha khởi.

[22] tatva yat satata dvayena rahita bhrānteś ca saniśraya śakya naiva ca sarvathābhilapitu yac cāprapañcātmakam | jñeya heyam atho viśodhyam amala yac ca praktyā matam yasyākāśa-suvara-vāri-sadśī kleśād viśuddhir matā || Asaga, MSA, XI.13. Có thể tham khảo bản Hán dịch, mặc dù khá khác biệt về cấu trúc: Vô Trước, Trang Nghiêm Kinh Luận, 611a27tt.

[23] Stefan Anacker, Seven Works of Vasubandhu: The Buddhist Psychological Doctor, Rev. ed. (Delhi: Motilal Banarsidass, 2005), 289.

[24] Xem thêm McNamara, "On the Status of the Trisvabhāvanirdeśa in Contemporary Conceptions of Yogācāra Thought"; Åke Boquist, Trisvabhāva: A Study of the Development of the Three-Nature-Theory in Yogācāra Buddhism (Sweden: University of Lund, 1993), 122.

[25] kalpita paratantraśca jñeya sakleśalakaam | parinipanna iṣṭastu vyavadānasya lakaam || Vasubandhu,Trisvabhāvakārikā, k. 17.

[26] arthatattvaprativedhe yugapal lakaatrayam | parijñā ca prahāa ca prāptiś ceṣṭā yathākramam ||Trisvabhāvakārikā, k. 31.

Không có nhận xét nào: