Thứ Hai, tháng 11 28, 2011

THÙ TRƯƠNG THIẾU PHỦ - Vương Duy

 酬張少府

晚年惟好靜,萬事不關心。

自顧無長策,空知返舊林。

松風吹解帶,山月照彈琴。

君問窮通理,漁歌入浦深。

 

Phiên âm:

Vãn niên duy hiếu tĩnh

Vạn sự bất quan tâm

Tự cố vô trường sách

Không tri phản cựu lâm

Tùng phong xuy giải đới

Sơn nguyệt chiếu đàn cầm

Quân vấn cùng thông lý

Ngư ca nhập phố thâm.

 

Dịch thơ:

Tuổi già vui cảnh vắng

Mọi việc chẳng quan tâm

Tự thấy không mưu chước

Về rừng tìm nghĩa không

Gió ngàn bay cợt áo

Trăng núi xuống thưởng cầm

Người hỏi cùng thông lẽ

Ngư ca thủng thẳng ngâm.

(Thiên Trác dịch)

 

- 28 November 2011.

Thứ Bảy, tháng 11 12, 2011

Rồi một ngày


Rồi một ngày anh ngã quị bên đường
Không đứng nữa, nằm đây nhìn phố thị
Những dòng xe, những bàn chân qua vội
Cuốn nhau vào trong vũ trụ tồn sinh

Nằm bên đường nghe chim chóc trở mình
Cả thiên nhiên cũng như đang cười nói
Những dòng người qua đi rồi trở lại
Anh nằm đây lặng ngắm cuộc đời trôi.
 
- nâng chén trà ngồi nghĩ chuyện Delhi. 12/Nov/2011

Thiên Trác.

Thứ Hai, tháng 10 17, 2011

Thời Gian


Photo @ Thiên Trác

Cánh hoa xinh một sớm chợt giật mình
Màu tàn úa đã về trong nắng nhạt
Bóng thời gian ngập tràn đôi mắt biếc
Tháng ngày xa vời vợi nỗi cô liêu.

Delhi, 17 October 2011
Thiên Trác.

Thứ Ba, tháng 10 11, 2011

Thu Về


Thu về mát lạnh từ những cơn gió
Buổi sáng tinh khôi dạo qua mấy ngả đường
Lòng chợt nhớ những dặm dài đã bước
Những dặm còn chờ im lặng dưới đôi bàn chân
Delhi mùa Thu có nắng vàng rực rỡ
Có những hàng cây xanh rợp lối về
Con sông nhỏ quẩy mình trong nắng mới
Áo em qua thoáng hiện giữa khung trời.
Mùa Thu, mùa Thu ơi.
Ngày nghỉ đầu Thu, 01/10/2011.
Thiên Trác.

Thứ Sáu, tháng 9 16, 2011

Độc Cư Tâm Thức

Thế giới chúng ta đang sống là trường trôi chảy của các pháp hữu lậu được dẫn sanh bởi nghiệp cảm chung của những tâm thức tham ái, si mê. Trong kinh, Đức Thế Tôn gọi toàn thể của sự trôi chảy đó, gồm hữu tình và vô tình, là thế gian (loka, từ này vốn có từ trước thời đức Phật, nhưng đến khi được đức Phật sử dụng thì nó mang nhiều ý nghĩa hơn, và phạm vi biểu tượng cũng sâu rộng hơn) để nói lên tính chất hệ phược, lậu thất và nhiệt não của nó. Trong môi trường đó, hay nói đúng hơn, do tập quán tích tập từ vô thỉ, tâm thức của chúng ta không ngừng hướng vọng đến các pháp bên ngoài thuộc ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Chính sự hướng vọng tìm cầu đó mà các pháp hữu lậu càng ngày càng hưng thịnh, điều kiện sanh tử ngày một dệt thêu. Đức Thế Tôn từ sau khi giác ngộ dưới cội Bồ đề, suốt cuộc đời giáo hóa của mình chỉ nêu bày con đường đưa chúng sanh xa lìa các pháp sanh tử, đạt đến Niết bàn an lạc. Để đối trị tâm lý vọng động mang nặng tham ái của chúng sanh, đức Thế Tôn thường giảng về hạnh độc cư tâm thức giúp hành giả đình chỉ tâm lý tham ái, chấp trước mà quay về quán chiếu thực tại để chuyển hóa nội tâm.

Thứ Sáu, tháng 9 02, 2011

ĐỨC PHẬT TRONG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

Paul Williams và Anthony Tribe
Thích Thanh Hòa dịch[1]
Một số bộ kinh làm nền tảng cho Phật Giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm (Avataṁsaka), Pháp Hoa (Saddharmapuṇḍarīka) và Thiện Phương Tiện (Upāyakauśalya)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á. Đó là bộ Kinh Hoa Nghiêm (Avataṁsaka Sūtra) đồ sộ, phức hợp và bộ Kinh Pháp Hoa (Saddharmapuṇḍarīka Sūtra) nổi tiếng. Kinh Thiện Phương Tiện (Upāyakauśalya Sūtra) sẽ giữ vai trò nguồn kinh điển bổ sung cho một trong những giáo lý chính của Kinh Pháp Hoa - giáo lý phương tiện thiện xảo (upāyalupāyakauślya).
Kinh Hoa Nghiêm là một bộ kinh phức hợp, rất có thể một số phần đã được tạo nên tại Trung Á, nơi mà có lẽ toàn bộ bộ kinh được kết tập lại và hoàn thiện. Nhiều phần của bộ kinh phức hợp này chắc chắn đã lưu hành ở Ấn Độ như là những bản kinh độc lập theo cách riêng của chúng. Quan trọng nhất trong số ấy là bản kinh nói về 10 giai đoạn của con đường Bồ-tát dẫn đến Phật quả - Thập Địa Kinh (Daśabhūmika sūtra), và đỉnh cao của Hoa Nghiêm (Avataṁsaka) được biết đến dưới cái tên Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (Gaṇḍavyūha Sūtra). Đây là một bộ kinh đặc biệt, nó sử dụng chủ đề Avataṁsaka (Hoa Nghiêm) với việc nâng ngôn ngữ lên một phạm trù cao hơn để cố gắng thể hiện diện mạo của thế giới giống như đức Phật nhìn thấy. Cảnh giới đó được nói là ‘bất khả tư nghị, không chúng sinh nào có thể thăm dò trắc lượng …’ (Avataṁsaka Sūtra, Cleary dịch).[2] Bởi vì đó là một cảnh giới mà trong mỗi vi trần của mỗi thế giới hiện ra chư Phật và các cõi Phật. Đó cũng là sự dung nhiếp vô hạn: ‘Các Ngài … nhìn thấy những cảnh giới đầy các chúng hội, chúng sinh và chư thần, và số lượng cảnh giới ấy nhiều như vi trần, tất cả đều hiện lên trong mỗi vi trần’ (Gomez dịch).[3] Tuy nhiên, dù với sự dung nhiếp vô hạn, mọi vật vẫn không hề bị lẫn lộn, mỗi sự vật nhỏ nhiệm đều giữ đúng vị trí của chúng. Chư Phật và các vị đại Bồ-tát mãi mãi thực hiện vô số hạnh nguyện cứu độ chúng sinh, khuyến khích các đức Phật và Bồ-tát khác hiện ra ở đời để cứu độ.

Thứ Ba, tháng 6 07, 2011

THÙ TRƯƠNG THIẾU PHỦ - Thế giới vô ngại của Thi Phật Duy Ma


Con người ấy tên là Duy, tự là Ma Cật, ghép lại là Duy Ma Cật, chỉ chừng đó thôi cũng đã nói lên được một tâm thái vô ngại giữa cuộc thế lắm nhiễu nhương. Duy Ma Cật vốn là tên của một vị Đại sỹ thông đạt pháp môn Bất nhị, an trú trong Vô ngôn đại định của Không tính.
Từ thuở ấu thời, do ảnh hưởng của gia đình, Vương Duy đã là một người tín phụng Phật giáo. Đến tuổi tóc bạc, lòng tín mộ ấy càng thâm sâu, đời sống có lúc tưởng chừng như vị sơn tăng. Lại nữa, xã hội Đường triều bấy giờ chịu ảnh hưởng thiền lý rất mạnh, nhất là trong giới sĩ phu, tình thơ ý thiền hòa quyện vào nhau, “thi vị thiền khách thiêm hoa cẩm, thiền thị thi gia thiết ngọc đao – thơ thêm hoa gấm cho khách thiền, thiền lại là con dao bén cho nhà thơ” như Nguyên Di Sơn đã nói. Chính hoàn cảnh ấy đã hun đúc nên hồn thơ của Vương Duy, bậc được tôn xưng là Thi Phật.

Tình Thu qua một số tác phẩm thơ Trung Hoa

Mùa thu là mùa thu tóc trắng. Tóc trời bạc trắng vì nhớ thương, tóc người bạc trắng vì khắc khoải. Bao nhiêu u tình ẩn ngữ như sóng chiều vỗ về bến thu phai. Nàng thu như rủ rê lòng tao nhân để được nghe bao lời nhỏ to tâm sự, còn tao nhân như tìm được kẻ tri âm để thổn thức những niềm nỗi riêng chung. Dù đó là mối tình khuê các hay chút nghĩa sơn thôn, tất cả đều cùng với khí thu hòa nên điệu buồn muôn thuở, một điệu buồn đủ mọi cung bậc và triền miên suốt cổ kim.
Ta hãy lắng nghe, trong gió thu xào xạc có cái gì như xót xa:
                       
                       
                       
                       
            Thu phong tiêu sắt thiên khí lương
            Thảo mộc diêu lạc lộ vi sương
            Quần yến từ qui hộc nam tường     
            Niệm quân khách du tư đoạn trường.

Thứ Bảy, tháng 6 04, 2011

Đâu Là Ý Nghĩa Chân Thật Của NIỆM Được Đức Phật Dạy?

Giáo sư Alan Wallace là một học giả đã từng viết và dịch nhiều văn liệu Phật giáo. Là một tiến sĩ tôn giáo học của Đại học Stanford (Hoa Kỳ), ông đã dành nhiều thời gian nghiên cứu các truyền thống tu tập và triết lý Phật giáo và mối liên hệ của chúng đối với khoa học hiện đại. Ông đã có một bài thảo luận sâu sắc về một phương pháp tu tập quan trọng nhưng lại bị hiểu lầm rộng rải trong Phật giáo: Thiền Chánh Niệm (Mindfulness Meditation).


Tôi đã từng trao đổi với nhiều giảng viên Phật giáo về đề tài niệm. Do đâu khiến tôi chú trọng vào đề tài này?

Thiền Tổ Vô Ngôn Thông và kệ Thị Chúng

Thiền Tổ Vô Ngôn Thông, khai sáng dòng thiền Tổ sư thứ hai tại Giao Châu vào đầu thế kỷ thứ IX. Ngài họ Trịnh, sinh quán tại Quảng Châu, Trung Quốc. Xuất gia tu học tại chùa Song Lâm, Vũ Châu, thường đi tham vấn khắp nơi về diệu nghĩa của Thiền. Một hôm, Ngài ở trong hội chúng của Thiền sư Bách Trượng, nghe câu đáp về con đường giác ngộ nhanh nhất của Đại thừa, Ngài hoát nhiên đại ngộ. Đó là câu thiền ngữ nổi tiếng mà ngày nay, những người học Thiền, không mấy ai không biết: “Tâm địa nhược thông, tuệ nhật tự chiếu”.
Câu thiền ngữ ấy xé toang màn vô minh hắc ám, trí tuệ bừng lên trong Ngài. Từ đó, Ngài tiếp cơ độ chúng, ngôn ngữ trầm mặc, nói ít hiểu nhiều, người đời gọi Ngài là Vô Ngôn Thông.

Thứ Sáu, tháng 6 03, 2011

Tràng Hạt

Thanh Hòa

Hạt kim cang được dùng như trang sức
Tràng hạt (Skr: japa mālā, Eng: the beads, hoặc rosary) là một vật dụng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Nó được dùng như một thứ trang sức hoặc như một pháp khí tùy theo đối tượng sử dụng. Trong tôn giáo, tràng hạt được dùng để liên kết và thiết lập trật tự cho các lời cầu nguyện, các bài kinh, các kệ tán, các danh hiệu hoặc những thần chú trong khi hành trì.

Với Phật giáo, tràng hạt là một pháp khí quen thuộc, việc sử dụng tràng hạt dường như đã trở thành nét đặc thù của Tịnh độ tông. Theo lịch sử truyền thừa của Tịnh độ tông, người chế ra tràng hạt để niệm danh hiệu Phật chính là ngài Đạo Xước (562-645), người được tôn là tổ thứ 2 của Tịnh độ tông Trung Quốc. Còn với Phật giáo Nam tông, từ lâu tràng hạt cũng đã dần dần trở thành một vật tùy thân ngoài 8 vật đã được Phật chế định: 3 y, kim chỉ, bình bát, dây lưng, dao cạo và túi lọc nước.

Thứ Năm, tháng 6 02, 2011

Hoa nắng

Bên đời hắt hiu nắng quái
Người đi như nước xuôi dòng
Nắng quái phủ vàng phố thị
Ở lại người nhớ dòng sông

Chuyện đời cứ theo dòng chảy
Tình người con nước mênh mông
Đi - Ở ngàn thu trùng ngộ
Giữa chiều hoa nắng rưng lòng.

Thiên Trác.

Thứ Ba, tháng 5 31, 2011

Phát quà vui Tết Thiếu nhi với trẻ em Cơ tu

Một sự tình cờ chúng tôi lại có dịp đến với vùng đồi núi dân tộc Cơ tu, Quảng Nam. Sáng nay, ngày 31/5/2011, CLB Nhiếp ảnh Nghệ Thuật Sông Hàn TP Đà Nẵng kết hợp chùa Phổ Đà đến phát quà cho các em thiếu nhi ở thôn A Duông 2 và thị trấn Prao thuộc xã Đông Giang, tỉnh Quảng Nam nhân tết Thiếu nhi 1/6.
Những chiếc cặp học sinh, vở, bánh kẹo, sữa, mì được trao cho các em nhỏ để giúp cho các em có thêm phương tiện học tập. Tuy là những món quà nhỏ, nhưng đây là tấm lòng chia sẻ và nâng niu đối với các em nhỏ ở vùng dân tộc thiểu số Cơ tu đang sống trong cảnh thiếu thốn. Những món quà đem lại cho cho các em không chỉ là giá trị vật chất khiếm tốn mà là niềm vui, niềm phấn khởi trong tình che chở đồng bào.
Nhìn các em nhỏ hân hoan với những món quà, chúng tôi lại nghĩ đến những chuyến đi tiếp, hy vọng mọi người đồng chia sẻ, góp cho các em niềm yêu thương.
Dưới đây là những hình ảnh ghi lại:
Chiếc cầu bắc qua suối do CLB đóng góp cho thanh niên thôn A Duông 2 làm