Thứ Sáu, tháng 1 10, 2020

TRUYỀN THỐNG THỜ PHỤNG XÁ-LỢI

Tín ngưỡng vào tính linh thánh ca nhng di vt hoThánh địa liên quan đến các bc Thánh là mt hin tượng ph biến trong mi tôn giáo trên thế gii. Hng năm, hàng triu tín đồ Do Thái giáo, Ki-tô giáo và Hi giáo đổ v cthành Jerusalem để được tn tay chm vào vùng đất thiêng gn lin vi cuđời các v giáo ch ca h. Tín đồ n giáo c mi năm mt ln nh, mười hai năm mt ln ln tìm v Sangam, ch hp lưu ca ba dòng sông Ganga, Yamuna và Saraswati,  Allahabad để được tm mình trong tính linh thánh ca các v Thánh tượng trưng bi các con sông, to nên nhng l hđông nht hành tinh. Vi Pht giáo, vic hành hương chiêm bái các Thánh tích cũng đã được đức Phật khuyến tấn. Trong Kinh Đại Bát-niết-bàn (Mahā-parinibbāna sutta), đức Phật đã nói với tôn giả A-nan rằng “có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính,” đó là bốn Thánh địa nơi đức Phật đản sinh, chứng ngộ quả Vô thượng Bồ đề, chuyển Pháp luân, và nhập Niết-bàn (Minh Châu, 1991, 642).
Liên quan đến cuộc đời của đức Phật, ngoài những Thánh tích, xá-lợi của ngài còn được xem như một loại di vật đặc biệt và trở thành đối tượng tín ngưỡng sâu rng có chiu dài lch s trong mi tng lp tăng tín đồ. Là một tín ngưỡng ở phạm vi quần chúng, bên cạnh những yếu tố kỳ bí có khi dẫn đến mê tín, tín ngưỡng th cúng xá-lợi lại mang nhng ý nghĩa sâu xa và đóng một vai trò vô cùng đặc biệt trong đời sng tâm linh ca người con Pht. Trong bài viết này, tác giả không đi tìm cách lý giải cho những điều kỳ bí mà thay vào đó, sẽ tập trung ở ba mục chính: (1) nguồn gốc và sự hình thành tín ngưỡng thờ phụng xá-lợi, (2) các loại xá-lợi, và (3) ý nghĩa biểu trưng của xá-lợi.

1.    NGUỒN GỐC VÀ S HÌNH THÀNH TÍN NGƯỠNG XÁ-LỢI
Xá-lợi (舍利) là phiên âm ca t śarīra trong tiếng Phn. Theo s kho cu ca Schopen, mt giáo sư chuyên vcác th loi minh văn Pht Giáo, t này xut hin trong ng cnh Pht Giáo khi  hình thc s ít (śarīra) có nghĩa là ‘thân th’ (c sng cũng như đã chết);  hình thc s nhiu (śarīrāni) nghĩa là ‘di ct’ (phn xương còn sót li sau khi thiêu) (Schopen, 1998, 256). T xá-lợi mà chúng ta đề cđế đây mang nghĩa th hai này. Ngoài ra, trong Phn ngdhātu (Hán: 駄都/đà-đô: yếu t, thành phn) cũng thường được dùng để ch cho xá-lợi vi ý nghĩa cái chết kèm theo ha thiêu s tr mt cơ th tr v các thành phn ca nó (Schopen, 1998, 257).
Theo đó, nói đến tín ngưỡng xá-lợi là nói đến truyn thng phng th phn tinh th còn lưu li sau khi trà-tỳ cđức Pht Thích Ca Mâu Ni nói riêng, ca các bc giác ng, trong đó có các bc cao tăng đắđạo, nói chung.
Truyn thng phng th xá-lợi ca Phđã hình thành và ph biến rng rãi t rt sm, nếu không nói là ngay sau khi đức Pht nhp niết-bàn. S kiđức Pht nhp niết-bàn được ghi li trong nhiu kinh đin trong đó có đon mô t cuđối thoi giđức Pht và tôn gi A-nan v vđề hu s ca ngài. Chng hn, Kinh Du Hành thuTrường A-hàm có ghi li lđức Pht hướng dn các các đệ t lo hu s ca ngài như sau:[1]
By gi A-nan t ch ngđứng dy bch Pht: 
“Sau khi Pht diđộ, phép tn táng nên làm thế nào?”
Pht bo A-nan:
“Ông hãy im lng. Hãy lo nghĩ đến công vic ca mình. Viđã có các thanh tín sĩ hoan h lo liu.”
A-nan hđến ba ln:
“Sau khi Pht diđộ, phép tn táng nên làm thế nào?
Pht dy:
“Mun biết phép tn táng thế nào thì nên làm theo cách tn táng Chuyn luân thánh vương.” …
 “V phép tn táng Chuyn luân thánh vương, trước hết ly nước thơm tm ra thân th; ly vi bông mi qun thân th; dùng năm trăm tm vi ln lượt qun vào, rđặt thân vào kim quan. Sau khi đã tm du mè, lđặt kim quan trong mt cái quách th hai ln, bng st, bên ngoài là lp quách bng g hương Chiên-đàn. Cht các th vi dày, hương thơm lên trên mà trà-t. Trà-t xong lượm ly xá-li, dng tháp treo phan th ti ngã tư đường để dân chúng đi ngang trông thy tháp ca Pháp vương mà tưởng nh li chánh hóa ca vua, đã làm li ích cho nhiu người.
“A-nan, ngươi mun tn táng ta, trước hết ly nước thơm tm ra thân th; ly vi bông mi qun thân th; dùng năm trăm tm vi ln lượt qun vào, đặt thân vào kim quan. Sau khi đã tm du mè, lđặt kim quan trong mt cái quách th hai ln bng st, bên ngoài là lp quách bng g hương Chiên-đàn. Cht các th vi dày, hương thơm lên trên mà trà-t. Trà-t xong lượm ly xá-li, dng tháp treo phan th ti ngã tư đường để dân chúng đi ngang trông thy tháp ca Pht mà tưởng nh lđạo hóa ca Pháp vương Như Lai, sng thì được phước li, chết thì sanh Thiên.”(Tu S, 2007, 107tt)
Sau l trà-t, xá-lợi ca Phđược bà-la-môn Hương Tánh (Droṇa) chia thành tám phn cho tám vùng lãnh thdng tháp cúng dường. V sau, vua A-dc li mt ln na thu thp s xá-lợi trong nhng ngôi tháp đó (ch by trong tng s tám ngôi) và phân b tôn trí trong 84.000 ngôi tháp do ông dng lên khp cõi Độ.[2]
Cũng cn nói thêm, tín ngưỡng th xá-lợi còn có ngun gc xa hơn, mc dù chưa chính thc, đó là khi đức Pht tng tám si tóc cho hai thương nhân Trapua và Bhallika sau khi mi thành đạo chưa lâu để làm vt k nim. Hai thương nhân này đã tr thành hai v đệ t ti gia đầu tiên cđức Pht.
Ban đầu, theo như lđức Pht dy, tháp xá-lợi được xây dng nơi công cng cho dân chúng l bái. Người xut gia hu như ít có mi liên h vi vic tín phng tháp xá-lợi bđiu này đã đượđức Pht nhc nh trong li di hun cui cùng rng không nên quan tâm đến vic th cúng xá-lợi mà hãy chuyên tâm cho vic tu tp.[3] V sau, vì vđềchăm sóc bo v nên tháp xá-lợi được tích hp vào khuôn viên các t vin. Do lượng xá-lợi có hn, nhng nơi mun dng tháp mà không có xá-lợi, người ta dùng các bài k tng như mt loi xá-lợi pháp thân thay cho xá-lợi sinh thân để tôn trí trong tháp. S thay đổi v nơi dng tháp cũng nói lên rng tín ngưỡng th xá-lợi dn dđi t dân gian vào t vin, được tích hp vào đời sng ca gii xut gia ch không còn là hođộng riêng r ca gii ti gia na (Ray, 1999, 337tt). Kết qu, ngày nay, phn ln các t vin Pht giáo, Nam truyn cũng như Bc truyn, đều có tháp trong khuôn viên dùng cho vic th cúng xá-lợi, kinh tượng, hoc m phn.



Xá-lợi của đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang được tôn trí tại Bảo tàng Quốc gia Ấn độ - New Delhi
2.    CÁC LOI XÁ-LỢI
Tri qua thi gian cùng vi s phát trin sâu rng ca tín ngưỡng phng th xá-lợi, khái nim xá-lợi không còn đơn gin ch riêng cho phn di ct mà nó còn được m rng ra nhiu th khác. Do vy, xá-lợi thường được chia thành hai loi chính: xá-lợi sinh thân (dhātu-śārīra) và xá-lợi pháp thân (dharma-śārīra) tương ng vi hai loi thân, sinh thân và pháp thân, ca Pht.
Xá-lợi sinh thân tc là xá-lợi t chính thân th ca Pht hoc nhng người tu hành đắđạo sau khi viên tch. Xá-lợi sinh thân gm có hai loi, đó là xá-lợi toàn thân (như hai v thin sư  chùa Đậ- Vit Nam) và xá-lợi toái thân (như các loại xá-lợi tóc, răng, xương, máu, tht…), tc các phn còn li sau khi trà-tỳ.
Song song vi xu hướng phng th xá-lợi sinh thân ca Pht, các truyn thng Pht giáo t xưa cũng đã sm có khuynh hướng xem toàn bộ giáo pháp ca Pht như là Chân thân hay Pháp thân ca ngài mà hình thành khái nim xá-lợi pháp thân. Khác vi xá-lợi sinh thân thuc loi vt cht c th, xá-lợi pháp thân thuc v tinh thn. Ý tưởng hình thành xá-lợi pháp thân có th bt ngun t nhng li dy cđức Pht trong mt s kinh đin. Chng hn, Kinh Tương Ưng B (Sayutta Nikāya) nói, “Ai thy Pháp, ngườy thy ta; ai thy ta, ngườy thy Pháp”(Bodhi, 2000). Trong khi đó, Kinh Cây Lúa (Śālistamba-sūtra) còn nói thêm, “Người nào thy pháp, ngườy thy Pht” (Reat, 1993). HoKinh Thánh Duyên Khi (Ārya-pratītyasamutpāda-mahāyāna-sūtra) nói c th hơn, “Lý duyên khi này là Pháp thân ca Như lai, người nào thđược lý duyên khi, ngườy thy Như lai” (Vaidya, 1961).
Vi h luđó, theo Boucher, vào khong cui triđại Gupta (khong thế k VI-VII), bài tng duyên khi—bài tng mà tôn gi Xá-li-phđược nghe khi thnh cu tôn gi A-thuyết-th gii thiu v giáo pháp cđức Pht ngay lđầu gp mt—đã hin nhiên tr thành mt loi xá-lợi pháp thân biu trưng cho đức Pht (Boucher, 1991). T nhng gì kho c cho thy, người ta thường đặt mt phiếđá hoc tđất sét có khc bài tng duyên khi vào trong nhng ngôi tháp. Sau này, điu tương tự cũng được làm trong nghi thc chú nguyn tượng Ph mt s truyn thng Phật giáo. Bài tng duyên khởi như sau:
[Oye dharmā hetuprabhavā hetu teā tathāgato hy avocat | teā ca yo nirodha evavādī mahāśramaa|| (Braginsky, 2002, 383; Bentor, 1996; Boucher, 1991). (Các pháp sinh khi do nguyên nhân, Như Lai ging vnguyên nhân ca chúng; và ngài, bĐại Sa Môn, cũng ging như thế v s tc dit ca chúng).[4]
Cũng cần nói thêm, trong tư tưởng Đại Thừa, xá-lợi sinh thân mặc dù quý hiếm nhưng xá-lợi pháp thân mới có công năng giác ngộ giải thoát, là đối tượng thật sự mà một người tu Phật cần hướng đến. Cho nên, Kinh Phóng Quang Bát-nhã dạy: 
Sau [khi Như lai] bát-nê-hoàn, [có thiện nam tử, thiện nữ nhơn] dựng tháp nơi an ổn, dùng các thứ hương hoa, tơ lụa, tràng phan, hoa cái, kỹ nhạc nổi tiếng cúng dường xá-lợi; lại có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ làm theo kinh Bát-nhã-ba-la-mật, dùng các thứ hương hoa, tơ lụa, tràng phan, hoa cái, kỹ nhạc nổi tiếng cúng dường [kinh Bát-nhã-ba-la-mật]; người làm việc cúng dường như thế nhận được phước nhiều hơn người cúng dường xá-lợi.”[5]
Ngoài ra, bên cạnh hai loi xá-lợi sinh thân và pháp thân nói trên, các di vt liên quan đếđức Pht như cây bđề, y, bát hoc các th đồ dùng liên quan khác cũng được lit vào hng mc xá-lợi th ba, gi là xá-lợi th dng (pāribhogika-śārīra) (Strong, 2004, 19; Bentor, 1994, 23). Theo nghĩa này, các Thánh tích liên quan đến cuộc đời của đức Phật cũng có thể được xem thuộc loại xá-lợi thọ dụng này.
3.    Ý NGHĨA BIU TRƯNG CA XÁ-LỢI
Thông thường, những gì phổ biến đồng thời cũng đem lại nhiều ý kiến khác nhau thậm chí là trái nghịch. Tín ngưỡng xá-lợi không nằm ngoài thông lệ đó và có khi còn bị xem là mê tín, sai lầm. Tiêu biu cho ý kiến này, chúng ta có th k đến Paul Carus, mt hc gi danh giá và là tác gi ca cuCm nang v đức Ph(The Gospel of Buddha) ni tiếng. Sau nhng tiếp xúc trong công vic nghiên cu Pht hc, mt nhà sư Tích Lan đã tng ông mt s pháp bo trong đó có mt viên xá-lợi, Carus đã viết thư trả lời như sau:
Tt c nhng kho tàng mà tôi xem là thiêng liêng đều thuc v tinh thn, không phi vt cht. Tín phng xá-lợi, dù đó là xương, tóc, răng, hay bt k phn thân th nào ca mt v Thánh, là mt sai lm. Chúng không có bt kmt giá tr nào hơn là di hài ca mt cơ th bình thường. Tinh túy cđức Pht không nm trong xương mà  trong li dy ca ngài, và tôi xem vic th cúng xá-lợi như mt giai đon na chng ca quá trình phát trin tôn giáo,  đó các tín đồ chưđạđược s hiu biết rõ ràng đầy tính triết hc. (Carus, 1897)
Thoạt nghe, quan điểm của Carus có vẻ hợp lý, nhất là với những người hoàn toàn duy lý. Tuy nhiên, có mt stht rt ph biến trong mi tôn giáo, đó là đời sng tôn giáo nhiu khi vn “nghch” vi kinh đin chính thng ca h. Phật giáo có trí tuệ và từ bi, có xuất thế gian pháp và cũng có thế gian pháp, cũng như Lục Tổ nói, “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác.”[6] Hai phạm trù xuất thế gian và thế gian là hai biểu hiện của cùng một thực thể sống động. Th phụng xá-lợi, nếu nhìn t góc độ xuất thế gian, có th b xem là không thích đáng; nhưng nếu nhìn từ góc độ thế gian, ni hàm ca nó vn mang nhng giá tr biu trưng vô cùng ý nghĩa.
Xá-lợi là hin thân ca s huân tu Gii - Định - Tu
Nói đến nhng giá tr ni hàm ca xá-lợi, trước hết cn biết rng, xá-lợi không phi là phn tro ct bình thường luôn luôn có sau mđám ha thiêu mà nó ch xut hi nhng trường hp cá bit, nhng người có s tu tp tinh tn và có s đạt ng trên con đường tu tp. Đó là mt thc tế và điu này cũng đã được chng thc trong kinh đin cũng như được ghi nhn trong nhiu minh văn cKinh Kim Quang Minh nói, “xá-lợi này là kết tinh ca s huân tu giđịnh tu, rt khó có được, là phướđin ti thượng.”[7]
V tư liu kho c, trên nhiu văn khc c Độ, người ta cũng thường tìm nhng li minh văn xem xá-lợi nhưlà hin thân ca giđịnh tu. Chng hn, mt dưới phđế ca bình đựng xá-lợi Pht do Kopśakasa tôn trí năm 26 CN có đon minh văn ghi, “Xá-lợi này cđức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, đấng Giác ngđược xông ướp bi gii, được xông ướp bđịnh, được xông ướp bi tu.[8] Nhiu minh văđược tìm th nhng nơi khác cũng có ni dung tương t. Có thể nói, về mặt bản chất, xá-lợi được mọi người thừa nhận như biểu hiện của sự tu chứng, là kết tinh của sự huân tu tam vô lậu học giới định tuệ.
Xá-lợi là hin thân sng động ca Pháp thân
Vượt lên trên tt c nhng cái đời thường, xá-lợi không ch là chút xương lnh mà là hin thân sống động của pháp thân, là một “thực thể sống” với đầy đủ phẩm đức của một vị Phật. Schopen khẳng định, “tt c mi ngun tài liu cĐộ, gm minh văn, kinh đin, văn chương bác hc, đều thng nht xem xá-lợi là có s sng.” Điển hình như, mt minh văn ghi trên np ca mt chiếc bình đựng xá-lợi có niên đại khong thế k th II TCN, thuc loi sm nht có th xác định được, gi xá-lợi Pht là “xá-lợi cđức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, cái được ni lin vi s sng” (prāasameta śarīra bhagavata śākyamune) (Schopen, 1998, 258tt; 1997a, 126).
 mt khía cnh nào đó, xá-lợi là hin thân ca nghch lý gia s sng và cái chết: s sng ngưng đọng trong cái chết, và cái chết thăng hoa trong s sng. Như trên đã đề cp, xá-lợi ca Phđượđịnh nghĩa là được xông ướp bi giđịnh tu, và đó là ba đặc tính hot dng tượng trưng cho mt bc Giác ng đang còn sng. Điđó có nghĩa rng, l kính xá-lợi cũng giống như l kính mt bc Giác ng đang tại thế. Xá-lợi vì thế trở thành mt cái chết hàm tàng trong s sng hay mt s sng hiện lên từ cái chết. Như vậy, về mặt bản chất, xá-lợi là hiện thân của tam vô lậu học giới định tuệ, là Pháp thân biểu trưng cho đức Phật. Do vậy, có thể nói, xá-lợi là biểu tượng của đức Phật niết-bàn, có giá trị như đức Phật tại thế.
Lời Kết
Nếu s sng và cái chết là hai mt ca mt hin tượng luân hi thì mđức Pht ti thế và xá-lợi sau trà-tỳ ca ngài là hai mt ca mt chnh th giác ngĐức Pht ti thế hin bày s nghiđộ sanh thì xá-lợi là hin thân ca cnh gii niết-bàn u tch. S sng cđấng giác ng là con đường li tha vn hnh thì niết-bàn ca v y là s cô đọng quá trình huân tu tam vô lu hc giđịnh tu thiêng liêng. Cái chết ca mt bc Thánh s đặt mt nc thang tiến bước trên con đường giác ng li tha bi cái chếđó không phi là mt s kết thúc mà là mt s m ra cái bao la trong tư tưởng, cái chết mang li li ích cho s sng. Trong ý nghĩđó, cái chết cũng cân bng vi s sng, cho nên trong Kinh Công Đức Tm Tượng, đức Pht dy, “Sau khi Như lai diđộ, có hai loi xá-lợi, mt là pháp thân, hai là hóa thân. Nếu thin nam t, thin n nhân... cúng dường xá-lợi, bng cách to hình tượng Pht nhiu như lúa mch, to tháp có hình dáng như trái am-la, ct tháp hình dáng như cây kim ln, lng tháp hình dáng như cánh bèo, đem nhng viên xá-lợi Pht hình dáng như ht ci an trí trong đó. Công đức có được [nh s cúng dường xá-lợi y] ging như [công đức cúng dường] Như Lai lúc còn ti thế, không có khác bit.”[9]
Như thế, trong tín ngưỡng phng th xá-lợi, đức Pht và xá-lợi không khác nhau bđó là hai mt ca cùng mt chân lý gii thoát: cái động và cái tĩnh, cái vô thường và cái thường, sinh t và niết-bàn. Trong ý nghĩa đó, xá-lợi là hin thân cđức Pht thể hiện triết lý “tử nhi bất tử” ở thế giới phàm tình này.
Hi Lc, 25.11.2019
THÍCH THANH HÒA
(Đã đăng trên Nguyệt San Giác Ngộ, số 286)

Thư Mc Tham Kho:
Bentor, Yael. 1994. "Tibetan Relic Classifications." Trong Tibetan Studies: Proceedings of the 6th Seminar of the International Association for Tibetan Studies. Manohar.
——————. 1996. Consecration of Images and Stūpas in Indo-Tibetan Tantric Buddhism. Leiden: Brill.
Bodhi, Bhikkhu. 2000. The Connected Discourses of the Buddha: A Translation of the Sayutta Nikāya. Somerville MA: Wisdom Publications.
Boucher, Daniel. 1991. "The Pratītyasamutpādagātha and Its Role in the Medieval Cult of the Relics." Journal of the International Association of Buddhist Studies XIV (1): 1-27.
Braginsky, Vladimir, ed. 2002. Classical Civilizations of South East Asia: An Anthology of Articles Published in the Bulletin of the School of Oriental and African Studies. London: RoutledgeCurzon.
Carus, Paul. 1897. "A Buddhist Priest’s View of Relics." The Open Court XI: 122-25.
Davids, T. W. Rhys. 1901. "Aśoka and the Buddha Relics." Journal of the Royal Asiatic So­ciety: 397-410.
The Dīgha Nikāya. 1966. Edited by T.W Rhys Davids and J. Estlin Carpenter. Vol. II, Pali Text Society. London: Luzac.
Du Hành Kinh. Đại 01, số 0001. [遊行經]Hán dịch bởi Phật-đà-da-xá and Trúc Phật Niệm.
Geiger, Wilhelm. 1912. The Mahāvasa or the Great Chronicle of Ceylon. London: Oxford Unversity Press.
Jongeward, David, Elizabeth Errington, Richard Salomon, and Stefan Baums. 2012. Gandharan Buddhist Reliquaries. Seattle: Early Buddhist Manuscripts Project.
Kim Quang Minh Kinh. Đại 16, số 0663. [金光明經]Hán dịch bởi Tam Tạng Đàm Vô Sấm.
Minh Châu, Thích. 1991. Kinh Trường BộĐại Tạng Kinh Việt Nam. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam.
Phật Thuyết Dục Tượng Công Đức Kinh. Đại 16, số 0697. [佛説浴像功徳經]Hán dịch bởi Tam tạng Bảo Tư Duy.
Phật Thuyết Tạo Tượng Lượng Độ Kinh Giải. Đại 21, số 1419. [佛説造像量度經解]Hán dịch bởi Công-bố-tra-bố.
Phóng Quang Bát-nhã Kinh. Đại 08, số 0221. [放光般若經]Hán dịch bởi Tam Tạng Vô-la-xoa.
Ray, Reginald A. 1999. Buddhist Saints in India: A Study in Buddhist Values and Orientations. New York: Oxford University Press.
Reat, N. Ross. 1993. The Śālistamba Sūtra. Delhi: Motilal Banarsidass.
Schopen, Gregory. 1988. "On the Buddha and His Bones: The Conception of a Relic in the Inscriptions of Nāgārjunikoṇḍa." Journal of the American Oriental Society 108 (4): 527-537.
——————. 1997a. Bones, Stones, and Buddhist Monks: Collected Papers on the Archaeology, Epigraphy, and Texts of Monastic Buddhism in India. Honolulu: University of Hawai’i Press.
——————. 1997b. "Monks and the Relic Cult in the Mahāparinibbāna-Sutta: An Old Misunderstanding in Regard to Monastic Buddhism." Trong Bones, Stones, and Buddhist Monks: Collected Papers on the Archaeology, Epigraphy, and Texts of Monastic Buddhism in India, edited by Gregory Schopen, 99-113. Honolulu: University of Hawai'i Press.
——————. 1998. "Relic." Trong Critical Tems for Religious Studies, edited by Mark C. Taylor, 256-268. Chicago: The University of Chicago.
Strong, John S. 2004. Relics of the Buddha. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Tôn Bảo, Tỳ kheo. Đại 48, số 2008. Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn Kinh [六祖大師法寶壇經].
Tuệ Sỹ, Thích. 2007. Kinh Trường A-hàm. Vol. 1: NXB Tôn Giáo.
Vaidya, P. L., ed. 1961. Mahāyāna-Sūtra-Sagraha. Vol. I. Darbhanga: The Mithila Institute.
Werner, Karel. 2013. "The Place of Relic Worship in Buddhism: An Unresolved Controversy?". Buddhist Studies Review30 (1): 71-87.



[1] 時,阿難即從座起,前白佛言: “佛滅度後,葬法云何?” 佛告阿難: “汝且默然,思汝所業,諸清信士自樂為之。”  時,阿難復重三 “佛滅度後,葬法云何?” 佛言: “欲知葬法者,當如轉輪聖王。” … “聖王葬法,先以香湯洗浴其體,以新劫貝周遍纏身,以五百張疊次如纏之。身金棺灌以麻油畢,舉金棺置於第二大鐵槨中,栴檀香槨次重於外,積眾名香,厚衣其上而闍維之。訖收舍利,於四衢道起立塔廟,表懸繒,使國行人皆見法王塔,思慕正化,多所饒益。阿難!汝欲葬我,先以香湯洗浴,用新劫貝周遍纏身,以五百張疊次如纏之。身金棺灌以麻油畢,舉金棺置於第二大鐵槨中,旃檀香槨次重於外,積眾名香,厚衣其上而闍維之。訖收舍利,於四衢道起立塔廟,表懸繒,使諸行人皆見佛塔,思慕如來法王道化,生獲福利,死得上天” (Du Hành Kinh, Đại 01, số 0001, 20a22-b11). Bn Pāli tương đương, xem Dīgha Nikāya (1966, 141tt).
[2] Trong quá trình thu thp, ch có xá-lợi  by ngôi tháp được thu thp, xá-lợi  ngôi tháp th tám ti Rāmagāma vđược giữ nguyên dưới s bo h ca loài Rng (Nāga) để sau này chuyn giao cho Tích Lan. Theo Buddhaghoa, chính vua A-xà-thế và trưởng lão Đại Ca Diếp làm công vic thu thp và dng li tháp trước, sau đó vua A-dđem phân b li (Davids, 1901; Strong, 2004, 128).
[3] Mc dù Schopen đã phân tích và không đồng tình vi quan đim này (Schopen, 1997b), nhưng rõ ràng, t kinh văn cho đến truyn thng sinh hot, tt c đềng h quan đim này. V vđề tranh lun này, xem thêm Werner (2013).
[4] Pāli: ye dhammā hetuppabhavā tesa hetu tathāgato āha | tesañca yo nirodho evavādī mahāsaa|| Nghĩa Tnh dch Hán: 諸法從縁起如來説是因彼法因縁盡是大沙門説 (Tạo Tượng Lượng Độ Kinh Giải, Đại 21, số 1419, 52b09-10).
[5] 若般泥洹後供養舍利安處竪立塔名花擣香澤香雜香繒綵華蓋幢幡伎樂若有善男子善女人書持般若波羅蜜諷誦念守承事供養名花擣香澤香雜香繒綵花蓋幢幡伎樂作是供養其福多於供養舍利 (Phóng Quang Bát-nhã Kinh, Đại 08, số 0221, 46b20-25).
[6] 佛法在世間不離世間覺 (Phật pháp là giác ngộ ở tại thế gian này chứ không xa lìa thế gian) (Tôn Bảo, Đại 48, số 2008, 351c09-10).
[7] 此舍利者是戒定慧之所熏修甚難可得最上福田 (Kim Quang Minh Kinh, Đại 16, số 0663, 354a14-16).
[8] bhagavato śakamu[i]sa [bosi]veto te dhaduve śila-paribhavida sama[s]i-paribha[vi]da praña-paribhavida (Jongeward et al., 2012, 222). Cũng xem thêm Schopen (1988).
[9] 我滅度後有二種舍利。一者法身。二者化身。若善男子善女人等。供養舍利造佛形像如大麥等。造塔如菴羅果。表刹如針。蓋如浮萍。持佛舍利如芥子大安置其中。所得功徳。如我在世等無差別 (Dục Tượng Công Đức Kinh, Đại 16, số 0697).

Không có nhận xét nào: